Trong các ngày 5-7/6/2013, Diễn đàn Kinh tế thế giới khu vực Đông Á – quy tụ nhiều nhà lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo các tập đoàn kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương – sẽ được tổ chức tại Myanmar. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng của Myanmar trên con đường hội nhập quốc tế mà chỉ cách đây hai năm không ai hình dung được.
Lịch sử Myanmar chuyển sang một bước ngoặt vào năm 2011: từ chính quyền quân sự độc tài sang thể chế dân chủ trong đó người dân có một phần quyền lực. Nhưng không giống như “Mùa xuân Ả-rập” hoặc các cuộc “Cách mạng màu” ở Đông Âu, cuộc chuyển hóa của Myanmar là “từ trên xuống”: chương trình cải cách được hoạch định và thực thi từ cấp cao nhất của hệ thống cầm quyền.
Không phải Myanmar không có những cuộc phản kháng từ bên dưới: cuộc nổi dậy năm 1988, tuy bị dập tắt đã dẫn tới sự thành lập Liên đoàn quốc gia vì Dân chủ (NLD) đối lập, đưa bà Aung San Suu Kyi lên vũ đài chính trị. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1990 đảng NLD giành thắng lợi áp đảo nhưng bị phe quân đội nắm quyền phủ nhận kết quả bầu cử. Năm 2007, cuộc “Cách mạng áo cà sa” của các tăng sĩ Phật giáo cũng bị đàn áp dã man. Phải đến năm 2011, những sự thay đổi “từ bên trên” mới thực sự biến Myanmar thành trường hợp hiếm hoi, điển hình cho một chế độ độc tài tự lột xác từ bên trong một cách hòa bình và đặt ra một kinh nghiệm quý để các nước láng giềng tham khảo.
Dường như kinh tế là động lực chính dẫn tới sự thay đổi. Năm thập kỷ dưới chế độ quân phiệt đã đưa Myanmar từ phồn thịnh xuống cơ hàn. Năm 1962 – 14 năm sau ngày Myanmar giành được độc lập từ tay thực dân Anh và ngay trước khi tướng Ne Win làm cuộc đảo chính quân sự rồi đặt đất nước dưới chế độ quân phiệt, Myanmar là quốc gia giàu có nhất khu vực với thu nhập bình quân đầu người đạt 670 đô la Mỹ/năm, gấp ba lần Indonesia và gấp đôi Thái Lan. Thế nhưng năm 2010, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế, thu nhập đầu người của Myanmar thấp nhất khu vực Đông Nam Á, kém cả Lào và Campuchia (xem bảng 1 và 2).
Sự tụt hậu khủng khiếp này là một nỗi “ô nhục” không chỉ của người dân mà cả các nhà lãnh đạo. Phát triển kinh tế để tiến kịp các nước lân bang là nhu cầu bức thiết. Vì lẽ đó, ngay từ năm 2003, thống tướng Than Shwe – nhà lãnh đạo độc tài khét tiếng – đã vạch ra “lộ trình bảy bước tới dân chủ” và chọn tướng Thein Sein làm người kế vị, chịu trách nhiệm thực hiện lộ trình đó. Ông Than Shwe giờ đây đã xa rời chính trường và hiếm khi xuất hiện trước công chúng, nhưng vẫn được coi là “kiến trúc sư” của chế độ dân chủ hiện hành.
Theo lộ trình này, một đại hội quốc gia được triệu tập để thảo ra bản hiến pháp mới, tuy còn nặng mùi quân phiệt, nhưng vẫn được trưng cầu dân ý và thông qua năm 2008. Năm 2010 cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội được tổ chức theo hiến pháp mới; Quốc hội sau đó đã bầu tướng Thein Sein làm tổng thống đầu năm 2011 và phê chuẩn một nội các mà hầu hết là các tướng lĩnh khoác áo dân sự.
Theo báo Economist, chế độ dân chủ mà giới lãnh đạo Myanmar hướng tới là “nền dân chủ có kỷ luật” (disciplined democracy), không trùng khớp với những nguyên tắc dân chủ ở phương Tây; trong đó quân đội vẫn nắm nhiều quyền lực và chi phối mọi mặt đời sống xã hội. Tuy nhiên, khi nắm được quyền lãnh đạo tối cao, Tổng thống Thein Sein đã mở rộng nền dân chủ này ra ngoài ý tưởng ban đầu của những người xướng ra nó.
Công cuộc phát triển kinh tế đòi hỏi Myanmar phải hội nhập với thế giới bên ngoài và thoát khỏi cái bóng của Trung Quốc. Nhưng để được thế giới chấp nhận, trước tiên Myanmar phải “hòa giải” với các lực lượng chính trị đối lập và “hòa hợp” với các nhóm dân tộc trong nước. Chỉ vài ngày sau khi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử giới lãnh đạo quân sự thấy đã đủ tự tin để xóa án “quản thúc tại gia” kéo dài suốt 15 năm áp đặt lên bà Aung San Suu Kyi và khôi phục tư cách pháp lý của đảng NLD đối lập mà thực tế đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật từ năm 2004.
Từ đó đến nay, chính phủ Myanmar hoạt động với sự đồng thuận cao và Tổng thống Thein Sein gần như đáp ứng tất cả những yêu cầu chính đáng của lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi về cải cách đất nước: trả tự do cho hàng ngàn tù chính trị, cho phép thành lập công đoàn độc lập, xoá bỏ chế độ kiểm duyệt, thực thi tự do ngôn luận, công nhận báo chí tư nhân, tổ chức tuyển cử tự do và công bằng, ban hành luật về đầu tư nước ngoài và cải cách hệ thống tỷ giá v.v… Chính phủ Myanmar cũng đã đàm phán và ký kết hiệp định đình chiến với phiến quân thuộc các nhóm sắc tộc Kachin, Karen, Shan v.v… đặt cơ sở cho sự hòa hợp dân tộc. Một thời được coi là hình mẫu của chế độ chuyên chế nhưng Myanmar hiện nay đã tốt hơn nhiều nước châu Á khác về quyền dân sự và chính trị, theo báo Economist.
Tự do chính trị đã kéo theo sự thay đổi về kinh tế. Gần như mọi biện pháp cấm vận kinh tế áp đặt lên Myanmar mấy thập niên qua đã lần lượt được dỡ bỏ; nhiều khoản nợ công được các chính phủ châu Âu, Nhật Bản xóa bỏ; các định chế tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) chẳng những hỗ trợ Myanmar về tài chính mà cả về đào tạo, tư vấn, xây dựng hệ thống pháp lý và hệ thống tổ chức tài chính theo hướng hiện đại. Với nguồn tài nguyên phong phú về dầu khí, nông sản, gỗ teak, đá quý và nhiều loại khoáng sản khác, với vị trí nằm giữa hai thị trường đông dân nhất thế giới Ấn Độ và Trung Quốc, kinh tế Myanmar được kỳ vọng sẽ tăng gấp 4 lần, từ 45 tỉ đô la Mỹ hiện nay lên 200 tỉ đô la vào năm 2030, theo tổ chức tư vấn kinh tế McKinsey Global Institute ngày 31-5.
Một thế lực được coi là “vật cản” cho tiến trình đổi mới của Myanmar là quân đội. Hiện nay, hầu hết các bộ trưởng trong chính phủ Myanmar và cả Tổng thống Thein Sein đều từng là tướng lĩnh quân đội, và theo Hiến pháp mới quân đội mặc nhiên được giữ 25% số ghế quốc hội mà không phải qua bầu cử. Nếu quân đội không từ bỏ sự kiểm soát đối với chính phủ, quốc hội và nền kinh tế thì cải cách khó mà tiến lên được.
Người ta lo ngại quân đội – qua đảng chính trị của mình là Liên minh đoàn kết và phát triển (USDP) chiếm đa số trong Quốc hội – sẽ chống lại các chương trình cải cách vì chúng sẽ xói mòn vị trí độc quyền của các tập đoàn kinh doanh thuộc quân đội đã có chân rết khắp nơi, từ kinh doanh khách sạn, hàng không, khai thác gỗ và đá quý cho đến các trang trại nuôi gia cầm. Tuy nhiên cho đến nay, quân đội Myanmar đã chấp nhận mọi sự thay đổi mà chính phủ dân sự của Tổng thống Thein Sein đề ra, thậm chí đảng USDP còn đề xuất sửa đổi hiến pháp theo hướng dân chủ hơn, tạo điều kiện cho bà Aung San Suu Kyi ứng cử tổng thống trong nhiệm kỳ tới, dù điều đó có thể làm rung chuyển tận gốc rễ quyền lực chính trị của tổ chức này.
Để có được sự ủng hộ của quân đội cho tiến trình cải cách, Tổng thống Thein Sein và lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi đã có một lựa chọn hợp lý: đề cao đoàn kết dân tộc để không làm cho những thủ lĩnh cũ của chế độ quân phiệt hoảng sợ. Bà Aung San Suu Kyi nhiều lần nói tới nhu cầu phải làm cho giới quân sự cầm quyền cảm thấy an toàn, không lo bị trả thù, không truy cứu tội trạng, không tịch thu tài sản… trong khi Tổng thống Thein Sein nhiều lần đề cập tới nhu cầu “tiến từng bước” để không gây sốc. “Ngay từ đầu, chúng tôi biết người dân mong muốn một chế độ dân chủ, nhưng chúng tôi không muốn thay đổi đột ngột vì làm như vậy rất nguy hiểm cho xã hội. Chúng tôi thay đổi vì nhân dân muốn như vậy”, ông nói.
Box: Tác động đối với châu Á
Một trong những chủ đề nóng của Diễn đàn Kinh tế thế giới đang diễn ra tại Myanmar là ý nghĩa và tác động của “Mùa xuân Myanmar” đối với phần còn lại của châu Á.
Hiện tượng dễ thấy nhất là đầu tư nước ngoài đã bắt đầu đổ vào Myanmar – vốn là thị trường “độc quyền” của các doanh nghiệp Trung Quốc. Ở các ngành dầu khí, ngân hàng, viễn thông, du lịch… đang diễn ra cuộc chạy đua quyết liệt giữa các công ty đa quốc gia để giành cái gọi là “biên giới cuối cùng” của kinh tế thế giới. Cùng với đầu tư nước ngoài, đã bắt đầu có sự dịch chuyển các xí nghiệp, nhà máy từ Trung Quốc sang Myanmar để tận dụng giá lao động rẻ và chính sách ưu đãi cho hàng hóa Myanmar xuất sang phương Tây.
Các chính phủ cũng gia tăng cạnh tranh giành ảnh hưởng ở Myanmar thông qua viện trợ phát triển chính thức (ODA). Trong chuyến thăm Myanmar mới đây, Thủ tướng Nhật đã công bố xóa khoản nợ 176,1 tỉ yen (khoảng 1,74 tỉ đô la Mỹ) cho nước này, đồng thời cam kết cung cấp 91 tỉ yen (khoảng 900 triệu đô la Mỹ) cho chính phủ Myanmar cải thiện cơ sở hạ tầng.
Thái Lan, nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai sau Trung Quốc, đang xúc tiến các dự án cảng nước sâu ở Dawei, xây dựng khu công nghiệp và 300 km đường bộ nối cảng này với Bangkok, trị giá khoảng 8,5 tỉ đô la Mỹ. Dự án này hoàn thành sẽ giúp hàng hóa từ Bangkok đi thẳng ra Ấn Độ Dương để sang châu Âu và ngược lại mà không cần phải vòng xuống eo biển Malacca. Nếu Camphuchia và Việt Nam cũng dùng con đường này thì vai trò “trung chuyển” của các hải cảng ở Singapore và Malaysia sẽ giảm bớt tầm quan trọng.
Ấn Độ đã cam kết đầu tư 100 triệu đô la Mỹ để nâng cấp cảng Sittwe ở phía bắc vịnh Bengal, coi đây là cửa ra biển của các tiểu bang vùng đông bắc bị kẹp trong đất liền giữa Bhutan và Bangladesh – vùng nghèo nhất Ấn Độ với khoảng 40 triệu dân.
Trung Quốc vừa hoàn thành tuyến đường ống dầu khí gần 800 km từ thị trấn Kyaupyu trên bờ vịnh Bengal đến thành phố Côn Minh và sẽ tiếp tục nhiều dự án khác để biến Myanmar thành cửa ra biển cho vùng Vân Nam rộng lớn của mình.
Cuộc cạnh tranh của các “ông lớn” ở Myanmar đang gây ra những va chạm, hoài nghi, nhất là giữa Bắc Kinh, Tokyo và New Delhi. Trong thực tế đó, công cuộc hội nhập của Myanmar sẽ chia rẽ hay đưa các cường quốc châu Á lại gần với nhau hơn, mấu chốt nằm ở đường lối và chiến lược của chính Myanmar.
Biểu đồ:
1- Tăng trưởng GDP của một số quốc gia châu Á.
2- Thu nhập bình quân đầu người của các nước ASEAN
Bản đồ (cho box)
Ảnh: Đường phố Yangon