Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương: TPP và động lực cải cách kinh tế

Với sự tham gia của Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ ba thế giới – Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership) sẽ có 12 thành viên, tổng sản lượng hàng năm 27.000 tỉ đô la Mỹ, bằng 40% GDP toàn cầu. Việt Nam sẽ hưởng lợi từ thị trường khổng lồ này nếu biết tận dụng tư cách thành viên TPP để đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế.

Sau ba năm làm việc, đàm phán TPP đã hoàn tất vòng thứ 16 tại Singapore hồi giữa tháng trước và đang chuẩn bị cho vòng đàm phán thứ 17 tại Peru xoay quanh vấn đề cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nông sản và dệt may. Mặc dù có diễn biến mới là hôm 15-3 Nhật Bản chính thức đề nghị được tham gia TPP song các quan chức vẫn hy vọng những nội dung cơ bản của Hiệp định sẽ được các nhà lãnh đạo các nước thành viên thông qua tại kỳ họp thượng đỉnh ở Bali, Indonesia vào tháng 10 tới.

Theo quy định, Nhật Bản, cũng như Canada và Mexico mới gia nhập năm ngoái, phải chấp nhận hoàn toàn các điều khoản mà các thành viên cũ của TPP đã thỏa thuận được và chỉ tham gia đàm phán những vấn đề chưa có kết luận cuối cùng. Vì thế, theo giới phân tích, ít có khả năng việc tham gia của Nhật sẽ làm chậm tiến trình đàm phán TPP.

Lợi ích của Việt Nam với tư cách thành viên chính thức của TPP từ rất sớm (tháng 11-2010) đã được giới chuyên gia và báo chí bàn tới rất nhiều. Báo Tuổi trẻ số ra ngày 1-4 dẫn nhận định của giáo sư Peter A. Petri, Đại học Brandeis (Mỹ) ước tính GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm 26,2 tỉ đô la Mỹ, tương đương 7,7% từ nay đến năm 2025 và con số này sẽ tăng lên thành 35,7 tỉ đô la Mỹ và 10,5% GDP nếu Nhật chính thức tham gia TPP. “Việt Nam đang ở vị trí tốt nhất để tận dụng lợi thế TPP,” ông nói tại một cuộc hội thảo về TPP do Bộ Công thương tổ chức gần đây.

Nhưng TPP không chỉ là một hiệp định tự do thương mại (FTA) thông thường và lợi ích của nó không chỉ là giá trị kim ngạch buôn bán tăng thêm. Một chuyên gia tham gia đàm phán cho rằng trong 26 chương của hiệp định chỉ có 5 chương liên quan trực tiếp tới thương mại như mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư…còn lại là những vấn đề về cơ cấu kinh tế như quy định về luân chuyển vốn, tranh tụng giữa doanh nghiệp và nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường, trao đổi qua biên giới quốc gia các dữ liệu điện tử, bảo vệ quyền của người lao động khi xảy ra tranh chấp thương mại v.v… Do phần lớn nội dung đàm phán, cho đến nay, vẫn được giữ trong vòng bí mật nên rất khó đưa ra một nhận định chung về TPP song theo các chuyên gia, nguyên tắc chung nhất của TPP có thể là xây dựng “thị trường tự do thực sự”: gia tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp và thị trường, đồng thời giới hạn sự can thiệp của các chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế-tài chính.

Hãy xem một số vấn đề chưa đạt được sự đồng thuận thường được nói tới là nông sản, dệt may, quyền sở hữu trí tuệ, quyền tiếp cận các dịch vụ tài chính, vai trò của doanh nghiệp nhà nước… Trong lĩnh vực dệt may-da giày chẳng hạn, TPP yêu cầu, để nhận được mức thuế nhập khẩu 0% từ mức thuế bình quân 12,7% hiện nay hàng hóa phải sử dụng nguyên liệu (vải sợi, phụ liệu) của nước sản xuất hoặc từ các nước thành viên TPP khác. Ngành dệt may-da giày Việt Nam hiện phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc – một nước không tham gia TPP – nên để tận dụng được cơ hội thâm nhập thị trường các nước TPP như Nhật, Mỹ, nhất thiết phải tổ chức lại toàn bộ quy trình sản xuất.

Nhờ được nhiều ưu đãi về vị trí độc quyền, tín dụng ưu đãi, đất đai giá thấp, các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu phát triển mạnh và giữ vai trò cốt lõi trong các nền kinh tế Việt Nam, Malaysia, Singapore, Peru… dẫn tới hiệu ứng phụ là kinh tế tư nhân bị chèn lấn, môi trường kinh doanh bị méo mó. Hiệp định TPP có ý định lập lại sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, tuy không đòi xóa bỏ loại hình doanh nghiệp nhà nước song đặt ra nhiều quy định buộc các doanh nghiệp này phải minh bạch hơn, tránh sự bảo bọc của nhà nước để cạnh tranh bình đẳng hơn với các doanh nghiệp khác.

Tham gia TPP, Nhà nước còn bị hạn chế trong việc can thiệp vào thị trường; lãi suất, tỷ giá, dòng lưu chuyển của tiền vốn và lao động ra/vào một thị trường nào đó sẽ do thị trường quyết định và điều hành; một chính sách như hạn chế rút vốn hiện nay đảo Cyprus bên Âu châu chẳng hạn có thể khiến chính phủ bị kiện nếu như Cyprus là thành viên TPP.

Việc thực hiện nguyên tắc thị trường tự do sẽ giúp hàng hóa Việt Nam có cơ hội tốt hơn để thâm nhập thị trường 11 nước thành viên TPP khác, song cũng đặt các doanh nghiệp trong nước vào cuộc cạnh tranh gay gắt hơn. Là nền kinh tế có trình độ thấp nhất trong các thành viên TPP, Việt Nam đứng trước nhiều thách thức có nguồn gốc từ những khuyết tật của chính nền kinh tế và doanh nghiệp trong nước. Loại hình doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò “chủ đạo”, doanh nghiệp mang tính độc quyền cao và sức cạnh tranh kém, nhà nước can thiệp vào mọi ngóc ngách của nền kinh tế từ giá vàng cho đến hạn mức tín dụng… đã là nguyên nhân đưa tới tình trạng rắc rối hiện nay và cản trở sự phát triển trong tương lai. Có gia nhập TPP hay không Việt Nam cũng phải đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế để tồn tại.

“Thực tế, nên hiểu TPP như là một cam kết hội nhập kinh tế toàn diện, có tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế hơn là một thỏa thuận giảm thuế thông thường”, chuyên gia Joshua Meltzer của Viện Brookings, nhận định. Và theo nghĩa như vậy, TPP chính là cơ hội Việt Nam đang rất cần để thúc đẩy công cuộc đổi mới nền kinh tế đã bị chậm lại trong khoảng 8 năm gần đây để nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc toàn cầu hóa đang sôi sục ở hai bên bờ Thái Bình Dương.

Nếu thành công trong cải cách cơ cấu kinh tế, khả năng Việt Nam đạt được lợi ích từ TPP như các chuyên gia đưa ra ở phần trên là trong tầm tay, ngược lại nếu chần chừ, thiếu ý chí chính trị thì không loại trừ khả năng bị bỏ lại đằng sau trên con tàu thương mại tự do khu vực.

Kinh tế Nhật sẽ khởi sắc?

Image

Bình thường mỗi năm cửa hàng xe hơi hạng sang Natume ở Tokyo bán được khoảng 300 chiếc Bentley, Ferrari và các loại siêu xe khác, nhưng theo quản lý cửa hàng Kenichi Oguma, “Năm nay chúng tôi dự kiến bán được 400-500 xe”. Và theo ông, đó là nhờ chính sách kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe.

Ông Abe trở lại cương vị thủ tướng tháng 11 năm ngoái và mang theo một luồng sinh khí mới cho nền kinh tế nước này. Chính sách kinh tế của ông – gọi không chính thức là Abenomics – gồm ba quyết sách lớn: tăng hội nhập quốc tế, tung ra gói kích cầu 10.000 tỉ yen (107 tỉ đô la Mỹ) và thực hiện “nới lỏng định lượng”: bơm tiền vào nền kinh tế thông qua việc mua lại trái phiếu chính phủ. Từ một nền kinh tế trì trệ và thiểu phát kéo dài suốt 15 năm qua, ông Abe đặt mục tiêu đưa tăng trưởng kinh tế và tăng lạm phát trở lại mức 2%/năm.

Trong thực tế, trong 100 ngày cầm quyền đầu tiên của ông Abe, chính sách kích cầu và nới lỏng định lượng đã làm cho đồng yen Nhật mất giá mạnh, đầu tuần này xuống mức 98,46 yen ăn 1 đô la Mỹ, thấp nhất kể từ tháng 5-2009. Đồng yen yếu đã hỗ trợ tích cực cho các nhà xuất khẩu của Nhật, kích thích các công ty chuyển lợi nhuận về nước và kết quả là cán cân thanh toán của Nhật đã thặng dư trở lại trong tháng 2-2013, với mức thặng dư 63,7 tỉ yen. Tăng trưởng kinh tế bắt đầu có dấu hiệu phục hồi với mức tăng 0,2%/năm trong quí 4 vừa qua. Nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là thị trường chứng khoán: theo báo The Economist, từ tháng 11 năm ngoái đến nay, chứng khoán Nhật Bản đã tăng tới 40%.

Chưa dừng lại ở các kết quả này, hôm 4-4, Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Haruhiko Kuroda cam kết sẽ tăng gấp đôi lượng tiền lưu thông trong hệ thống tài chính thông qua việc bơm ra thị trường mỗi tháng 7.500 tỉ yen để mua lại trái phiếu dài hạn mà chính phủ Nhật đã phát hành trước đây. Biện pháp nới lỏng định lượng này dự kiến sẽ kéo dài 2 năm hoặc đến khi lạm phát vượt qua mức 2%/năm đã định.

Những chính sách tài chính-tiền tệ mạnh mẽ đó sẽ giúp các doanh nghiệp sẽ có nguồn vốn rẻ để mở rộng đầu tư, sản xuất. Tuy nhiên, tấm huy chương nào cũng có mặt trái: đồng yen yếu đi sẽ khiến nhập khẩu của Nhật tăng lên, đồng thời gây xung đột thương mại với các đối tác, nhất là với Trung Quốc và Hàn Quốc là những nền kinh tế có sản phẩm xuất khẩu gần giống với sản phẩm Nhật Bản. Thứ trưởng bộ kinh tế Yasutoshi Nishimura nói rằng, trong khi tỷ giá 98-100 yen ăn 1 đô la Mỹ thì không có vấn đề gì nhưng mức 110-120 yen sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu.

Cho đến nay, đã có những phản ứng trái ngược nhau trước chính sách tiền tệ của Nhật. Tại Diễn đàn kinh tế châu Á Bác Ngao đang diễn ra tại Trung Quốc, Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế Christine Lagarde hoan nghênh quyết sách mạnh mẽ của Nhật và cho rằng nó sẽ giúp thúc đẩy kinh tế toàn cầu vào lúc triển vọng tăng trưởng đã bắt đầu được cải thiện. Ngược lại, Hàn Quốc và Trung Quốc bày tỏ lo ngại rằng, chính sách của Nhật có thể xói mòn sức cạnh tranh của các nước khác, đồng thời dòng vốn rẻ từ Nhật có thể chảy sang láng giềng, đẩy lạm phát ở các nước này lên cao. Các nền kinh tế khác ở châu Á đang mong đợi một làn sóng đầu tư mới từ Nhật Bản chưa đưa ra bình luận gì, còn đang cân nhắc lợi hại để tìm biện pháp ứng phó thích hợp.

Tuy nhiên, hãy còn quá sớm để dự đoán một sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Nhật dưới tác động của những chính sách Abenomics. Chuyên gia Stephen King của Ngân hàng HSBC lưu ý rằng, tăng trưởng của kinh tế Nhật bị kìm hãm bởi nhiều yếu tố ngoài chính sách tài chính, chẳng hạn như tình trạng dân số bị lão hóa và thị trường lao động khép kín. Sự phá giá đồng yen khiến sức mua bị giảm tất yếu sẽ làm cho cuộc sống người dân khó khăn hơn và sự ủng hộ dành cho chính phủ của ông Abe sẽ giảm đi tương ứng, buộc Thủ tướng Abe phải “nghĩ lại”.

Môi trường bên ngoài, đặc biệt là quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc – đối tác thương mại lớn nhất của Nhật – cũng là yếu tố góp phần quyết định sự thăng trầm của kinh tế Nhật. Nếu Thủ tướng Shinzo Abe tiếp tục khuynh hướng cứng rắn trong vấn đề tranh chấp đảo Senkaku/Điếu Ngư với Trung Quốc và đi viếng đền Yasukuni vào tháng 8 tới như dự định thì quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn nhất nhì châu Á này sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Cuối cùng, vấn đề của Nhật không chỉ là chính sách tài chính mà cần phải thực hiện cải tổ kinh tế ở nhiều phương diện như hạ thuế suất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, xóa bỏ các rào cản phi thuế, chấp nhận cạnh tranh trên sân nhà, từ đó làm gia tăng năng suất và hiệu quả của doanh nghiệp Nhật. Tham gia TPP chính là động lực thúc đẩy Nhật cải tổ, song dường như người Nhật vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc chơi lớn mà trong đó họ bị buộc phải “bỏ con tép bắt con tôm”.