Huỳnh Hoa
Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quên được cái cảm giác thật đặc biệt khi ngồi trên chiếc xe thổ mộ cọc cạch đi giữa những đền tháp hoang tàn trong một buổi sáng tinh mơ, mặt trời chưa thức giấc, cả vũ trụ dường như chỉ có tôi, con ngựa già và những đền đài trầm mặc. Không đèn đóm, không bóng người, không tiếng máy xe, chỉ tiếng vó ngựa lách cách trên con đường ướt đẫm sương mai và tiếng quàng quạc của bầy quạ ăn đêm đâu đó đang gọi nhau về tổ. Trong thoáng chốc, tôi có cảm tưởng như thời gian đã quay ngược lại hàng trăm năm, hay là tôi đã bị lạc vào quá khứ một vùng đất từng rất huy hoàng nhưng nay chỉ còn là phế tích: Bagan (Pagan).
Kỳ 1: Bagan vẫy gọi
Tôi chỉ mới vừa đến Bagan trên chuyến xe tốc hành xuyên đêm từ thành phố Yangon, cách 700 km về phía nam. Cũng như mọi du khách đến Myanmar khi đất nước này bắt đầu mở cửa, tôi háo hức đến Bagan, nơi mật độ di tích lịch sử thuộc loại cao nhất thế giới, và thường được ví với thánh địa Angkor của Campuchia. Xe rời Yangon lúc 6 giờ chiều hôm trước và rạng sáng hôm sau, lúc 4 giờ, tôi đã có mặt ở bến xe thị trấn Nyang-U gần kề khu di tích Bagan.
Theo tài liệu lịch sử, từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13, Bagan là thủ đô của Vương quốc Pagan, vương quốc đầu tiên thống nhất được các lãnh chúa, hợp thành quốc gia Myanmar hiện đại. Trong thời hoàng kim của vương quốc, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 13, đã có hơn 10.000 ngôi chùa, đền miếu và tu viện Phật giáo được xây dựng trên đồng bằng Bagan rộng 104 km2, bên dòng sông Irrawaddy. Những chùa chiền và tu viện này đã đào tạo hàng nghìn tăng sĩ về Phật pháp, kiến trúc, thiên văn học, ngôn ngữ học…, đặt nền tảng cho nền văn minh sông Irrawaddy, cội nguồn của văn hóa Myanmar hiện đại. Thời thịnh trị có cả những đoàn tăng sĩ từ Ấn Độ, Tây Tạng, Khmer đến Bagan tu học. Sự phát triển phồn thịnh suốt 250 năm của kinh đô Bagan chỉ chấm dứt khi vó ngựa của đoàn quân viễn chinh Mông Cổ tràn qua đồng bằng này năm 1287.
Đến nay sau gần ngàn năm bị tàn phá bởi thời gian và binh lửa, Bagan vẫn còn hơn 2.200 chùa chiền đền tháp tương đối nguyên vẹn, được bảo tồn trong một cánh đồng diện tích khoảng 25 km2, không có dân cư sinh sống, gọi là Khu khảo cổ học Bagan hay đơn giản là Old Bagan (Bagan Cổ) để phân biệt với khu đô thị mới xây dựng New Bagan gần đó. Ở hai đầu nam bắc của khu bảo tồn có hai thị trấn nhỏ cách nhau khoảng 15 km: Nyang-U và New Bagan, nơi dừng chân của du khách bốn phương, có sân bay, bến xe, nhiều khách sạn, nhà hàng, thậm chí có cả một sân golf.
Không để lỡ dịp ngắm bình minh trên đồng bằng Bagan, và còn quá sớm để nhận phòng khách sạn, tôi uống vội ly cà phê trong quán cóc bến xe rồi thuê xe thổ mộ đi đến nơi mà du khách vẫn thường tụ tập chụp ảnh mặt trời mọc trên các đền tháp cổ. Người đánh xe gầy gò, mắt thâm quầng vì thiếu ngủ, cùng con ngựa già lọc cọc đưa tôi đi vào khu di tích khi đất trời còn tối mịt.
Đền Shweleiktoo nằm giữa con đường xuyên qua Old Bagan nối Nyang-U với New Bagan, tuy không phải là ngôi đền to lớn nhất hay đẹp nhất, nhưng trong đền có một cầu thang hẹp, chỉ vừa một người nhỏ con, tối đen, dẫn lên một ban công rộng hướng về phía mặt trời. Lúc tôi lên đến nơi trời hãy còn tối nhưng đã có vài du khách Nhật Bản và Thụy Sĩ ngồi chờ với máy ảnh lăm lăm trong tay. Từ ban công này nhìn ra, cánh đồng Bagan trải rộng tới chân trời, có rất nhiều đền, tháp lẩn khuất dưới các tàn cây. Khi mặt trời mọc dần lên, nền trời ửng lên màu hổ phách rất đẹp, rọi một thứ ánh sáng huyền bí xuống các ngôi đền gạch làm chúng đỏ hồng lên trong ánh bình minh. Lúc ấy tôi tiếc đã không mang theo cái máy ảnh compact có chức năng chụp ảnh toàn cảnh (panorama), chiếc Canon EOS của tôi dù đã mở ống kính hết cỡ cũng chỉ bao quát được một góc nhỏ của cảnh quan hùng vĩ. Chung quanh đền Shweleiktoo, phía nào cũng điệp trùng đền tháp, có tháp vươn cao trên nền trời, có tháp ẩn dưới tán lá, lại có những đỉnh tháp dát vàng rực rỡ phản chiếu ánh nắng.
Kỳ 2: Muôn vẻ đền đài
Tôi dành trọn buổi sáng để theo người xà ích, kiêm hướng dẫn viên nghiệp dư, đi tham quan những ngôi đền chính của Bagan. Rất nhiều ngôi đền, vẻ ngoài còn nguyên vẹn nhưng đã hoàn toàn hoang phế nằm lặng im bên những con đường lầm cát, nhưng cũng có những ngôi đền vẫn còn thực hiện chức năng tôn giáo, nơi người dân đến cúng viếng và cầu phước.
Mỗi ngôi đền có một vẻ riêng, không giống nhau. Do thời gian có hạn, tôi chỉ chọn một số ngôi đền chính, còn nguyên vẹn và tiêu biểu nhất.
Đền Ananda, đúng hơn là chùa Ananada (Ananda Pahto) nằm cuối con đường dẫn vào kinh thành cổ Bagan. Đền được xây dựng bởi vua Kyansittha vào năm 1105, bị động đất phá hủy một phần vào tháng 7 năm 1975, sau đó được Phật tử đóng góp trùng tu lại, trở thành một trong những ngôi đền còn nguyên vẹn nhất, và cũng được tôn kính nhất Bagan. Sách hướng dẫn du lịch nước ngoài liệt đền Ananda là di tích số 1 mà du khách phải thăm khi đến Bagan.
Tháp chính của đền Ananda cao 54 mét, đỉnh tháp dát vàng; tháp có 4 mặt nhìn ra bốn hướng, mỗi mặt có một gian thờ, bài trí một tượng Phật khổng lồ cao gần 10 mét, dát vàng lấp lánh. Tượng hướng về phía Đông là Phật Konagamana (Câu Na Hàm Ma Ni), hướng về Tây là Phật Gautama (Cồ Đàm), hướng Nam là Phật Kassapa (Ca Diếp) và hướng Bắc là Phật Kakusanda (Câu Lưu Tôn). Đây là các vị Phật của thời hiện kiếp, quán cả bốn cõi, xuất hiện trên trần thế để cứu rỗi chúng sinh bằng năng lực trí tuệ vô biên.
Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng, đền Ananda được xây dựng bởi các kiến trúc sư và thợ thủ công Ấn Độ, có rất nhiều nét tương đồng về kiến trúc với các đền tháp ở quê hương đức Phật. Ngoài các tượng Phật khổng lồ, dọc các hành lang rộng trong đền có rất nhiều tượng nhỏ và nhiều tranh tường (bích họa) kể lại cuộc đời của Phật Thích ca, từ lúc ngài đản sinh, chứng quả cho đến lúc nhập diệt.
Khi tôi đến, có vài chiếc xe khách nhỏ chở Phật tử đến cúng buổi sáng. Trong đền, có người bán hoa và những mảnh vàng cán mỏng, tiếng địa phương gọi là lam, để người hành hương cúng dường đức Phật và sau khi cầu nguyện họ dán các mảnh vàng đó lên thân tượng. Do phong tục này mà một số bức tượng nhỏ, hình như là tượng La-hầu-la, dưới chân tượng Phật Gautama có “da dẻ sần sùi” trông rất lạ.
Đền Ananda là một trong hai ngôi đền có một quầy sách nhỏ, bày bán các loại kinh sách phục vụ Phật tử, lẫn các sách nghiên cứu về di tích đền tháp ở Bagan và Myanmar nói chung; những người có ý hướng nghiên cứu thì không nên bỏ qua quầy sách này.
Đền Thatbyinnyu nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần đền Ananda và là ngôi đền cao nhất Bagan, cao 61 mét, được xây dựng dưới triều vua Alaungsithu khoảng giữa thế kỷ 12. Nhìn bề ngoài, đền Thatbyinnyu đồ sộ, quét vôi trắng, trông giống như một tu viện Thiên chúa giáo thời Phục Hưng ở châu Âu. Bên trong đền có các dãy hành lang dài, bố trí các bàn thờ với tượng Phật nhiều tư thế và hình dáng khác nhau nhưng tất cả đều được dát vàng lấp lánh. Phần lớn Phật tử đến cúng viếng ở đền này mà tôi gặp buổi sáng hôm ấy là phụ nữ.
Nghe nói thời xưa, đền Thatbyinnyu là kho tàng bích họa của nghệ thuật Phật giáo Myanmar, nhưng trong những đợt trùng tu người ta đã quét vôi trắng lên tường, làm mất hết các bức họa quý giá. Đi chân trần trên những lớp đá xanh mát lạnh và mòn vẹt dưới hàng triệu bước chân của khách thập phương, giữa các hành lang vắng lặng và hun hút gió, hai bên là những bức tượng Phật lấp lánh ánh vàng của đền Thatbyinnyu, tôi có cảm giác thật yên bình và thanh thản, dường như cuộc sống tất bật nơi phố thị đã rời xa rất xa.
Đền Shwesandaw trông xa giống như một kim tự tháp Ai Cập, có 4 mặt, 5 tầng và một stupa (tháp hình quả chuông úp) trên đỉnh. Tương truyền, đền này được xây dựng bởi vua Anawrahta năm 1057 để lưu giữ xá lợi là một trong 8 sợi tóc của Phật Thích ca được đem về từ Ấn Độ hồi trước Công nguyên. Điểm đặc biệt của đền Shwesandaw là có bốn cầu thang bằng gạch ở bốn mặt, mỗi cầu thang có 5 tầng, để du khách và người hành hương có thể leo lên các ban công trên cao. Bên phải của cầu thang người ta đã lắp một dãy ống tuýp sắt khá vững chãi để du khách dễ leo lên cao vì cầu thang khá dốc và hẹp.
Đây là nơi du khách thường tụ tập để ngắm và chụp ảnh mặt trời lặn trên dòng sông Irrawaddy. Cũng giống như đền Thatbyinnyu, các bức tường của đền Shwesandaw được tô trát cẩn thận và quét vôi trắng, không rõ từ nguyên thủy đã như vậy hay do người đời sau trùng tu, vì đa phần đền tháp ở Bagan được xây bằng gạch, để trần, không tô trát, tương tự các tháp Chăm ở nước ta. Buổi chiều tối, lúc tôi trở lại đền Shwesandaw thì các ban công hẹp trên cả 5 tầng tháp đều đông kín du khách, bãi cát trước đền cũng ken đầy xe hơi, xe khách, xe đạp và xe thổ mộ.
Cách không xa đền Shwesandaw là đền Dhammayangyi, có cổng vào và tường gạch bao quanh dù nhiều đoạn tường rào đã đổ nát. Dhammayangyi là ngôi đền rộng lớn nhất ở khu di tích Bagan, và tài liệu cho biết người ta đã phải dùng đến 6 triệu viên gạch để xây nên nó. Không giống các đền khác, đền Dhammayangyi không có đỉnh tháp nhọn ở giữa có treo một cái chuông gió thường thấy ở các đền tháp khắp Myanmar. Tương truyền đền Dhamayangyi được vua Narathu (1167-1170) cho xây dựng để sám hối tội lỗi đã giết cha, anh và vợ để chiếm ngôi vua. Bản thân vua Narathu cũng bị ám sát trước khi ngôi đền được xây dựng xong. Trong quá trình xây dựng, có một số thợ xây người Ấn Độ bị nhà vua xử tử vì làm việc không khéo léo, để mạch vữa giữa các viên gạch quá rộng. Do lịch sử huyền bí của ngôi đền này mà cư dân địa phương thường gọi đây là “ngôi đền ma”; bên trong có nhiều đàn dơi, quạ làm tổ và chất thải của chúng khiến cho trong đền có mùi khó chịu.
Hai ngôi đền khác, có kiến trúc gần giống nhau, cũng có tường gạch bao quanh với quy mô to lớn tương đương là đền Htilominlo xây dựng năm 1246, mang tên vị vua đã xây dựng nên nó. Đền có 3 tầng, cao 46 mét, còn nguyên vẹn và được bảo quản khá tốt. Htilominlo đại diện cho phong cách kiến trúc muộn nhất của kiến trúc Phật giáo Myanmar ở Bagan trước khi kinh đô này chấm dứt vai trò lịch sử của nó. Để thăm đền này, du khách phải mua vé 5 đô la Mỹ, và đây là một trong hai ngôi đền có bán vé vào cửa cho khách tham quan, tất cả những di tích còn lại đều miễn phí.
Đền Sulamani nằm giữa cánh đồng trống, xa đường cái, được vua Sithu đệ nhị xây dựng vào năm 1183, là nơi còn lưu giữ được một số bích họa với nét vẽ thô vụng, nhưng đáng tiếc là các cuộc trùng tu cũng đã làm mất đi nhiều những đặc điểm cổ xưa của ngôi đền. Sulamani là ngôi đền duy nhất ở Bagan có hai dãy nhà lá dọc lối vào bày bán các loại đồ lưu niệm, chủ yếu có tranh cát và tượng khắc gỗ. Cũng giống đền Ananda, đền Sulamani có bốn mặt nhìn ra bốn hướng, nối với nhau bằng các hành lang rộng, mỗi mặt có một điện thờ thờ Phật Thích ca; dọc hành lang cũng có những hốc tường, mỗi hốc là một điện thờ Phật. Tôi để ý thấy một cô gái vào đền rồi đi thẳng tới một hốc tường sâu bên trong và quỳ xuống làm lễ ở đó; không rõ có phải vị Phật được thờ tại điện thờ này là “thần hộ mệnh” của cô hay không.
Kỳ 3: Bồ Đề đạo tràng và chùa vàng Shwezigon
Sẽ thiếu sót lớn nếu đến Bagan mà không ghé thăm Bồ Đề đạo tràng Bagan (Mahabodhi) – một bản sao thu nhỏ của Bồ Đề đạo tràng (Bodhigaya) nguyên gốc ở Ấn Độ, nằm trong khu vực thành Bagan cổ. Tương truyền đức Phật Thích ca chứng quả, đạt tới Đại Ngộ Đại Giác, sau 49 ngày đêm thiền định dưới bóng một cây bồ đề thiêng. Tại nơi thiền định của ngài, vào năm 250 trước Công nguyên, vua A Dục (Asoka) của vương triều Maurya đã cho xây dựng một bảo tháp bốn mặt, ghi dấu hành trình chứng ngộ của đức Phật. Bảo tháp của vua A Dục đã được trùng tu nhiều lần và cùng với cây bồ đề thiêng – tại một thánh địa gọi chung là Bồ Đề Đạo tràng – là trái tim của văn hóa Phật giáo thế giới.
Bồ Đề đạo tràng ở Bihar Ấn Độ từng bị tàn phá bởi quân Thổ xâm lược vào thế kỷ 12 và Phật giáo Bagan đã cử những đoàn nghệ nhân sang giúp xây dựng lại để rồi khi trở về Myanmar, những nghệ nhân này đã xây dựng một ngôi đền tháp theo nguyên mẫu của tháp Bodhigaya, năm 1215, dưới triều vua Nadaungmya (1211-1234), theo tấm bia đặt trước cổng vào đền Mahabodhi.
Về mặt kiến trúc và vị trí, Mahabodhi Bagan hoàn toàn khác các đền tháp Phật giáo trong khu di tích này; nó không nằm ngoài cánh đồng mà ở trong kinh thành. Kinh thành là một khu đất rộng có tường gạch cao và dày bao bọc chung quanh, tương tự như Hoàng thành của triều Nguyễn ở Huế, bên trong thành có cung điện của các vị vua, nay được xây dựng lại hoàn toàn mới để phục vụ du lịch. Hiện nay tường thành đã sụp đổ, chỉ còn lại những mô đất cao, nhưng qua phần tường còn sót lại ở cổng thành Thiraba Gate, người ta có thể hình dung được quy mô đồ sộ của ngôi thành này. Bên trong thành còn có Bảo tàng Khảo cổ học Bagan và có cả một khu di tích rộng đang được khai quật được rào chắn cẩn thận.
Đền Mahabodhi có hai tầng, một tầng đế và một tầng tháp, chiều cao tổng cộng 42,6 mét, nhưng không rõ vì sao cầu thang lên tầng trên đã bị bít lại. Ở tầng đế có một gian thờ Phật rộng, nhưng khác với tất cả các đền tháp còn lại, gian thờ này có cửa ra vào, cánh cửa sơn son thếp vàng và được khóa bằng một ổ khóa thép chế tạo riêng cho Nữ hoàng Victoria bên Anh. Chung quanh đền có rất nhiều hốc tường nhỏ, mỗi hốc tường đều có một tượng Phật an vị, tổng cộng có 465 tượng Phật ở nhiều tư thế.
Tầng tháp có bốn mặt, gồm hàng trăm bức phù điêu miêu tả cuộc đời đức Phật, giống hệt tháp Bodhigaya ở Bồ Đề Đạo tràng Ấn Độ và hàng chục tháp Bồ Đề khác trên khắp Myanmar. Tiếc là trước cửa vào điện thờ chính của Bồ Đề đạo tràng Bagan người ta đã dựng lên một căn nhà mái tôn làm nơi tập trung, sửa soạn đồ lễ của người hành hương và căn nhà này đã phá hỏng kiến trúc và không khí tôn nghiêm của Bồ Đề đạo tràng.
Cũng như Mahabodhi, đền vàng Shwezigon là một “ngoại lệ” ở Bagan, trước tiên vì đền không xây bằng gạch mà được dát vàng từ chân lên đỉnh tương tự như chùa vàng Shwedagon nổi tiếng ở Yangon; đêm đêm, ánh đèn pha phản chiếu từ ngôi đền làm sáng rực cả một vùng. Đền Shwezigon không nằm trong thành cổ như Mahabodhi, cũng không nằm ngoài cánh đồng như những ngôi đền khác mà đứng riêng một cõi gần bến xe Nyang-U. Nếu như các đền tháp khác đều ít nhiều bị thời gian tàn phá thì đền Shwezigon hoàn toàn nguyên vẹn, dù ngôi đền được xây dựng từ năm 1102, dưới thời các vua Anawrahta và Kyansittha.
Ngày nay, đền Shwezigon là một khu phức hợp rộng hàng chục hécta có tường cao bao bọc chung quanh. Ở chính giữa khu phức hợp là ngôi đền vàng khổng lồ, trông giống như cung điện của một vị vua chúa Trung Hoa nào đó, chung quanh có hàng chục ngôi đền nhỏ hơn cùng với nhiều dãy nhà rộng làm nơi tụ họp của Phật tử, nơi chuẩn bị đồ lễ trong những dịp lễ hội. Những hành lang dài có mái che dẫn vào đền được cư dân trong vùng tận dụng để mở những dãy sạp bán hàng lưu niệm và bên trong ngay cạnh đền chính cũng có những quày hàng như vậy. Hàng lưu niệm mang đặc trưng Bagan là những bức tranh cát – họa sĩ dùng cát nhuộm màu rồi tô lên những tấm vải có phết keo, tạo thành những bức tranh miêu tả cảnh quan đền đài hoặc những họa tiết kiến trúc ở Bagan.
Nên lưu ý là những người bán hàng ở đền Shwezigon, và ở nhiều ngôi đền khác nữa, rất “kiên trì” đeo bám và du khách hiếm khi rời được ngôi đền mà không mua một món hàng nào đó.
Kỳ 4: Một chút về Phật giáo Bagan
Sức hấp dẫn của Bagan có lẽ nằm ở hai điểm: di tích lịch sử-văn hóa Phật giáo đồ sộ và lối sống xưa cũ của thời xưa còn sót lại.
Du khách rất dễ bị choáng ngợp trước số lượng, quy mô, tính đa dạng của các đền tháp Phật giáo Bagan. Phần lớn đền tháp ở Bagan đều được xây bằng gạch, các viên gạch chồng khít lên nhau gần như không có mạch hồ (vữa), giống hệt kỹ thuật xây dựng đền tháp Chăm ở Việt Nam. Và cũng giống tháp Chăm, hầu hết các đền tháp Bagan đều để nguyên tường gạch, không tô trát; chỉ vài ngôi đền chính được tô trát và quét vôi trắng nhưng được biết đó là do các cuộc trùng tu gần đây. Nhờ khí hậu khu vực này khô và nóng quanh năm nên các đền tháp Bagan không bị thời tiết hủy hoại nhanh như các tháp Chăm ở Việt Nam; trên các bờ tường hầu như không thấy rong rêu hay cây cối như các đền tháp ở Mỹ Sơn, Quảng Nam.
Do Myanmar là nước có nhiều vàng (Golden State) nhiều đền đài ở Bagan được dát vàng lên phần đỉnh tháp, lên hàng trăm pho tượng Phật lớn nhỏ. Gần như tất cả các tượng Phật thờ trong đền Ananda, đền Thatbyinnyu đều dát vàng; ở các đền khác, những tượng Phật ở gian thờ chính là tượng vàng, còn ở những hốc tường là tượng gỗ hay tượng đất sét.
Tuy nhiên, đặc trưng kiến trúc đền tháp Phật giáo ở Bagan là chuộng hình thể, quy mô mà thiếu sự tinh tế của điêu khắc. Nếu như các đền tháp Chăm ở Việt Nam có rất nhiều tác phẩm điêu khắc, phù điêu, tượng đá sa thạch trên khắp các bức tường, bệ thờ thì đền tháp ở Bagan – trừ Bồ Đề Đạo tràng Mahabodhi, hầu như không có tác phẩm điêu khắc nào đáng kể ngoài các tượng Phật hao hao giống nhau, chỉ khác nhau về kích thước và tư thế. Thỉnh thoảng, du khách bắt gặp một số tượng thú vật ở các cổng vào đền, nhưng chủng loại khá khiêm tốn, dường như chỉ có tượng voi và khỉ, họa hoằn lắm mới thấy tượng rắn thần Naga vốn rất phổ biến ở Thái Lan, Campuchia. Những tượng thú này cũng khá thô kệch, thiếu những chi tiết điêu khắc sắc sảo thường thấy ở các nước khác.
Về mặt kiến trúc, đền tháp ở Bagan chia thành hai loại “đặc ruột” và “rỗng ruột”. Stupa là loại đền thờ “đặc” theo kiểu kim tự tháp Ai Cập nhưng hình dáng giống quả chuông úp; bên ngoài có cầu thang dẫn lên các ban công hẹp trên cao; tiêu biểu cho loại này có đền Shwesandaw, đền vàng Shwezigon… Hai là, loại đền thờ “rỗng” bên ngoài không có cầu thang nhưng bên trong có nhiều hành lang ngang dọc; mỗi hành lang có nhiều hốc bài trí bàn thờ và tượng Phật; tiêu biểu cho loại này có đền Ananda, đền Sulamani, đền Thatbyinnyu, đền Dhammayangyi … Dù “đặc” hay “rỗng” các đền tháp chính ở Bagan đều rất đồ sộ, hoành tráng, biểu thị sức mạnh và quyền uy của vị vua đã xây dựng nên nó.
Du khách là Phật tử từ Việt Nam sang hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy tượng Phật thờ trong các đền tháp ở Bagan khá đơn điệu vì chỉ có một vị Phật: Đức Thích ca Mâu ni, không hề thấy bóng dáng các vị Phật A di đà, Phật Di lặc hay các vị Bồ tát, La hán quen thuộc trong chùa chiền Việt Nam… Căn nguyên của tình trạng này có thể bắt nguồn từ gốc rễ của Phật giáo: Phật giáo Myanmar thuộc hệ phái Theravada, khác hoàn toàn với Phật giáo Bắc tông đã bị “Hán hóa” phổ biến ở Việt Nam. Theravada có khi được dịch là Phật giáo Tiểu thừa, dù không thật chính xác, nhưng đây là hệ phái “nguyên thủy” nhất của Phật giáo, chỉ tôn thờ Phật Thích ca, tôn thờ trí tuệ đại giác, cầu trí tuệ để ra khỏi vô minh, mà không mưu cầu danh lợi hay giải thoát thông qua phép thuật của các vị Bồ tát.
Phật giáo Theravada ở Myanmar, có nguồn gốc từ Tây Tạng, cũng khác với Phật giáo ở Thái Lan và Campuchia, không thấy có ảnh hưởng của Ấn Độ giáo (Hinduism). Không tìm thấy ở Bagan tượng thờ hoặc đền tháp thờ các vị thần linh Ấn Độ giáo như Brahman, Vishnu hay Shiva, cũng không thấy những bức phù điêu hay bích họa kể truyền thuyết Mahabharata vẫn thường gặp ở Angkor bên Campuchia hay Ayuthaya bên Thái Lan.
Những điểm khác biệt này của Phật giáo Myanmar cũng như ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần-văn hóa của người Myanmar là những đề tài lớn, cần có thời gian và công phu nghiên cứu, trên đây chỉ là cảm nhận ban đầu của một lữ khách ghé đến Bagan trong hai ngày ngắn ngủi, có thể chưa chính xác.
Kỳ 5: Nơi thời gian dừng lại
Từ những nơi đô hội về đây, du khách đều có cảm giác yên bình lạ lùng, có thể do suốt ngày lang thang trong các đền miếu, tiếp xúc với những người hành hương mộ đạo, cũng có thể do nhịp sống ở Bagan chậm rãi một cách lạ lùng. Thị trấn rất nhỏ, chỉ vài ngàn dân, ngoài hai con đường lớn có trải nhựa, mỗi con đường dài khoảng 10 km chạy từ bắc xuống nam thì còn lại là đường đất, không có vỉa hè, không có cống rãnh, nhiều đoạn nước bẩn chảy lênh láng; người dân có khi tạt nước bẩn lên mặt đường để chống bụi.
Khi đặt chân đến Yangon tôi đã có cảm giác ở đất nước này thời gian như ngừng lại cách đây vài chục năm khi nhìn thấy trên đường phố những khu chung cư cũ kỹ, những chiếc xe khách, xe lam từ thập niên 1960 vẫn cần mẫn chở người và hàng hóa, hành khách chen kín trong thùng xe và bu bám cả bên ngoài xe giống như ở Việt Nam thời bao cấp. Tới Bagan cái cảm giác ấy còn đậm thêm, thậm chí có lúc đứng nhìn người nông dân đánh đôi bò kéo cày trên cánh đồng đầy cát, phía sau nhấp nhô những đền tháp hoang tàng, tôi cứ cảm giác rằng thời gian đã dừng lại hàng trăm năm, hàng ngàn năm và nền văn minh vật chất của thế kỷ 21 dường như chỉ là một ảo ảnh.
Đi trong khu di tích Bagan đôi lúc tôi tưởng như mình đang đi trên đất Phan Rang, Ninh Thuận: cũng những cánh đồng rộng, bầu trời cao và xanh, những con đường lầm cát chạy giữa các bụi cây xương rồng, cây keo và những hàng cây thốt nốt. Người dân ở đây không trồng lúa, cũng không trồng các loại cây công nghiệp vì không có nước tưới; họ chỉ trồng những giống cây ngắn ngày và chịu khô hạn; dùng bò kéo cày bừa như tổ tiên họ từng làm thuở Bagan còn là một kinh đô thịnh vượng. Tại thời điểm này trong năm, việc thu hoạch đã xong, chung quanh các đền tháp là những cánh đồng trống, phẳng lì và lộng gió.
Hoạt động kinh tế chính của Bagan là dịch vụ du lịch và các nghề thủ công như đan lát, chạm khắc gỗ, sản xuất hàng sơn mài. Đồ sơn mài của Bagan nổi tiếng thế giới và cũng là một “sản phẩm du lịch” hấp dẫn, song do thời gian hạn hẹp, tôi chưa có dịp đi thăm các cơ sở làm sơn mài ở làng Myinkaba trên đường tới New Bagan, đành phải hẹn một dịp khác.
Ở Bagan, xe hơi là của hiếm, người dân vẫn đi lại trên những chiếc xe tải nhỏ, được che thêm tấm bạt trên thùng xe làm nơi chở người; có khá nhiều chiếc máy cày kéo theo sau cái rơ-móc để chở người hay vật liệu xây dựng, máy nổ ầm ầm và khói bay mịt cả một vùng.
Phương tiện di chuyển được ưa chuộng của du khách ở đây là xe thổ mộ và xe đạp. Cũng có xe taxi nhưng xe rất cũ, không có tổng đài để gọi xe (muốn gọi taxi khách phải nhờ lễ tân khách sạn và thường phải đặt trước vài tiếng đồng hồ); và ở Myanmar, kể cả ở thành phố Yangon, taxi không có đồng hồ tính cước, trước khi đi khách phải thỏa thuận giá cước với lái xe, thường không rẻ lắm và dễ bị hớ.
Xe thổ mộ, tuy xưa cũ nhưng giá cước cũng khá đắt. Tiền thuê một chiếc xe ngựa để đi lại trong một ngày vào khoảng 25.000 đồng kyats, tương đương 550.000 đồng Việt Nam; người đánh xe đôi khi nói được chút ít tiếng Anh, có thể kiêm luôn “hướng dẫn viên du lịch”. Tuy nhiên, khó mà nói chuyện được với “hướng dẫn viên”, một phần vì đa số họ rất kiệm lời, phần vì đa số đàn ông Myanmar vừa hút thuốc lá vừa ăn trầu nên hơi thở của họ có mùi khó chịu.
Xe đạp có giá thuê khoảng 1.500 đồng kyats mỗi ngày. Nhưng đạp xe trên những con đường đầy cát, dưới ánh nắng chói chang và không khí nóng bức là điều không dễ chịu chút nào, nhất là đối với du khách đã quen với cuộc sống thành phố và công việc văn phòng.
Điện ở Bagan, cũng như ở Myanmar nói chung, rất chập chờn và hầu như không có đèn đường. Du khách nên mang theo đèn pin, và khi có điện nên tranh thủ sạc các thiết bị điện tử vì không biết điện sẽ bị cắt lúc nào. Một số khách sạn lớn ở Bagan có dịch vụ Internet và wifi nhưng tốc độ truy cập rất chậm, lại thường bị mất điện.
Một điều cần lưu ý là khi vào thăm các di tích đền tháp ở Bagan, du khách phải bỏ giày dép, kể cả tất (vớ) ở ngoài cửa và đi chân đất. Vì thế, chỉ nên mang dép hoặc sandal, hạn chế mang giày để đỡ mất thời gian và nên tránh đi thăm đền vào buổi trưa vì nền đất rất nóng.
Bagan phát triển du lịch đã lâu nên có nhiều khách sạn, nhà nghỉ từ bình dân đến cao cấp. Nhà nghỉ bình dân (guest house, hostel) có giá khá bèo, khoảng 7 đô la Mỹ/giường/đêm, phù hợp với những người trẻ đi “phượt”; khách sạn có ăn sáng, có wifi miễn phí giá khoảng 40-50 đô la Mỹ, còn khách sạn có hồ bơi hoặc resort có khi đến 150 đô la/phòng/đêm.
Ăn uống thì không thành vấn đề: người Myanmar ăn uống khá giống người Việt, chỉ khác là cơm, rau và thịt cá được trộn chung vào một đĩa chứ không dọn thành những món riêng. Ở Bagan cũng có khá nhiều tiệm ăn Ý, Ấn Độ, Hoa, Thái để du khách lựa chọn, tiền ăn mỗi bữa tốn khoảng từ 2 đến 6 đô la Mỹ, tùy thực đơn. Thức uống phổ biến ở Myanmar là món trái cây xay (sinh tố) giá khoảng 1.000 kyats, trà Myanmar (Myanmar tea) là món trà sữa, có giá khoảng 300 kyats. Trà xanh như người Việt thường uống ở đây gọi là trà Tàu (Chinese Tea), được bày sẵn trên bàn trong các bình thủy nhỏ để khách uống miễn phí. Cà-phê ở đây ít người dùng, khi gọi cà-phê thì quán chỉ phục vụ một ly nước sôi và một gói cà-phê hòa tan 3 trong 1, tùy khách pha chế, giá khoảng 300 kyats.
Đàn ông, đàn bà Myanmar đều mặc váy; đàn ông ăn trầu và hút thuốc lá; đàn bà thường bôi trên mặt một loại bột màu vàng, gọi là thanaka, làm từ rễ một loại cây bản địa, có tác dụng dưỡng da, chống nắng. Bột rễ cây thanaka, trộn với chất keo nha đam (aloha vera), ép thành từng bánh nhỏ như bánh quy, hoặc đựng trong lọ mỹ phẩm, là một trong những đặc sản của Bagan mà du khách thường mua làm lưu niệm. Và cũng giống như ở những thị trấn nhỏ ở Việt Nam, đàn ông thường tụ tập trong các quán trà, bàn tán suốt ngày về các mẫu xe gắn máy mới, điện thoại di động mới… đang là mốt thời thượng ở đất nước vừa mở cửa giao thương này.
Nói chung, người Myanmar ở Bagan rất thân thiện, dễ mến, một phần do nền văn hóa truyền thống, một phần do chủ trương chào đón và chăm sóc du khách của xứ này. Nhưng cũng như ở những vùng du lịch khác, những người bán hàng rong ở đây thường chèo kéo, bu bám du khách để chào mời dịch vụ của họ.
Kỳ cuối: Từ Bagan nghĩ về Mỹ Sơn
Xét về giá trị lịch sử, về đặc điểm kiến trúc, khu di tích Bagan rất gần gũi với thánh địa Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, Quảng Nam): cũng những đền tháp bằng gạch đỏ uy nghi mang trên mình bao lớp phế hưng. Bởi vậy, cũng như những người Việt từng đặt chân tới miền đất Phật Bagan, cảm giác chung của chúng tôi là nghĩ về Mỹ Sơn, về những ngọn tháp Chăm cô quạnh trên dải đất miền Trung nắng gió, từ Quảng Bình tới Ninh Thuận.
Có người nói rằng, so với hàng ngàn đền tháp còn khá nguyên vẹn của Bagan thì những đền tháp Mỹ Sơn “thật tội nghiệp”: chỉ vỏn vẹn vài ba tháp mà hầu hết đã hoang tàn đổ nát, trông như những “lò gạch cũ” bỏ hoang.
Cũng có thể như thế. Chỉ xin lưu ý rằng, từ năm 1989, khu di tích Mỹ Sơn đã chính thức được Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới, hiện đang được các chuyên gia khảo cổ của Việt Nam, Ý, Nhật và Ba Lan nỗ lực trùng tu, tôn tạo để giữ cho hậu thế một di sản kiến trúc tôn giáo đặc sắc. Trong khi đó, Bagan đã nhiều lần bị UNESCO từ chối, không đưa vào danh sách Di sản văn hóa thế giới, dù quy mô và bề dày lịch sử của Bagan hơn hẳn Mỹ Sơn.
Nguyên nhân là vì Myanmar đã thực hiện không tốt việc trùng tu, bảo quản và tôn tạo khu di tích có một không hai này. Để thu hút du khách, người ta đã cho làm một con đường bốn làn xe hơi xuyên qua khu di tích Bagan Cổ nối thị trấn Nyang-u với thị trấn New Bagan, đã xây một “tháp ngắm cảnh” (Seeing Tower) cao vòi vọi ngay giữa khu di tích, thậm chí còn cho mở một sân golf ngay ở nơi cần bảo tồn nghiêm ngặt. Tệ hơn nữa, công cuộc trùng tu, tôn tạo đã phần nào làm biến dạng các đền tháp, hoặc khiến cho chúng không còn giữ nguyên được hình dáng, đường nét và chất liệu nguyên thủy, từ đó làm giảm giá trị của di tích cả về lịch sử lẫn văn hóa. Có nơi, như đền Sulamani, chùa vàng Shwezigon… người ta còn dùng cả gạch men để lát lên những lối đi mà ngày xưa chỉ là đường đất, đường đá. Việc lạm dụng vàng để tô trát lên đền tháp, lên tượng Phật cũng khiến cho các di tích này trở nên “mới mẻ”, “hiện đại” một cách đáng ngờ.
Dù sao, với những gì còn giữ được, với những du khách và người hành hương bình thường, Bagan xứng đáng là một điểm đến hết sức hấp dẫn mà trong hai ngày lang thang tôi mới chỉ chạm đến một chút vỏ bên ngoài. Từ Bagan, nhìn về Mỹ Sơn càng thấy phải quý những gì mà đất nước mình đang có để mà trân trọng, rút ra bài học từ Bagan để mà gìn giữ di tích sao cho xứng đáng với công khó của tiền nhân.
Saigon, tháng 6-2013