Châu Á lo ngại “giấc mơ Trung Quốc”

Image

Ảnh: Hoàng Sa là của Việt Nam – mô hình khinh thuyền đi trấn thủ Hoàng Sa các thế kỷ trước được tái hiện trong lễ khao lề thế Hoàng Sa vừa tổ chức ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) cuối tuần qua. Ảnh Nguyễn Văn Minh (tuoitre.vn)

 

Hôm Chủ nhật 28-4, Trung Quốc đã đưa một con tàu du lịch chở khoảng 100 khách ra quần đảo Hoàng Sa – vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam, bất chấp lời phản đối mà Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra hôm 5-4-2013. Chuyến đi này được Chính phủ Trung Quốc khuyến khích và được báo chí nước này quảng bá rầm rộ. Hơn thế nữa, việc tính toán mở chuyến du lịch đầu tiên tới Hoàng Sa trùng vào dịp nhân dân Việt Nam kỷ niệm 38 năm ngày thống nhất đất nước càng cho thấy dã tâm và ý đồ gây hấn của Bắc Kinh. 

Dẫn tuyên bố của Việt Nam rằng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa là “không thể chối cãi”, báo The Globe and Mail của Canada nhận định, chuyến du lịch này của Trung Quốc là một hành vi xâm lược núp bóng một hoạt động kinh tế, một trong hàng loạt hành động tương tự để củng cố yêu sách chủ quyền bất hợp pháp trên lãnh thổ của các quốc gia khác và thăm dò phản ứng của các nước láng giềng.

Chuỗi hành động gây hấn của Trung Quốc đã gây lo ngại sâu sắc ở khắp châu Á và đặt nghi vấn về cái mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gọi là “giấc mơ Trung Quốc”. Ông Tập đề cập tới “giấc mơ” này bằng những lời lẽ mơ hồ như là “cuộc hồi xuân vĩ đại của đất nước Trung Hoa” nhưng những động thái gần đây cho thấy đằng sau đó chỉ là gia tăng sức mạnh quân sự để xâm lấn và chèn ép các nước láng giềng. Nhận định này càng được củng cố khi ngày 16-4 Bắc Kinh công bố sách trắng về quốc phòng, trong đó khẳng định vai trò của quân đội là “bảo vệ và hiện thực hóa giấc mơ Trung Quốc”.

“Giấc mơ Trung Quốc bao hàm giấc mơ bảo vệ an ninh hàng hải của Trung Quốc và xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc hải dương”, Ju Hailong, chuyên viên Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Jinan, viết trên Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc hôm Chủ nhật. Về chuyến du lịch tới Hoàng Sa đang diễn ra, ông Ju đe nẹt: “Những ai muốn cản trở hành động của Trung Quốc nhằm gây rối đều là người không tuân thủ luật pháp quốc tế”. Ông này giả vờ hay cố tình không biết rằng luật pháp quốc tế, mà cụ thể là Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 hoàn toàn không thừa nhận chủ quyền những lãnh thổ chiếm được bằng xâm lược vũ trang mà ai cũng biết Trung Quốc đã dùng vũ lực cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam ngày 19/1/1974.

Thực hiện “giấc mơ Trung Quốc”, hôm 15-4 bộ binh Trung Quốc, được máy bay trực thăng hộ tống, đã tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ, băng qua đường phân giới LAC (Line of Actual Control) mà hai nước đã thỏa thuận sau cuộc chiến tranh năm 1962. Hình ảnh trên truyền hình Ấn Độ cho thấy lính Trung Quốc cắm trại chỉ cách các đồn biên phòng của Ấn khoảng 100 mét ở thung lũng Depsang, phía sau đường phân giới LAC khoảng 19 km.

Ở phía đông, xung đột giữa Trung Quốc và Nhật Bản tăng tới cực điểm trong tuần qua khi Trung Quốc phái 8 tàu hải giám tới vùng đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản kiểm soát. Những ngày cuối tuần qua, tàu hải giám của Trung Quốc vẫn quẩn quanh gần đảo Senkaku và được các chiến đấu cơ Su-27, Su-30 hỗ trợ. Báo Sankei Shimbun ghi nhận có khoảng 40 lượt máy bay chiến đấu Trung Quốc lượn lờ trên bầu trời đảo Senkaku. “Một mối đe dọa chưa từng có”, một quan chức Nhật Bản nói với báo Sankei Shimbun.

Nhưng hành động gây choáng nhất của Trung Quốc là cuối tháng 3 vừa qua Bắc Kinh phái 4 tàu chiến, trong đó có một tàu đổ bộ, đến tập trận chiếm đảo ở bãi cạn James Shoal mà Malaysia tuyên bố chủ quyền. Bãi cạn này cách bờ biển Malaysia chỉ 80 km, trong khi cách điểm cực nam của Trung Quốc trên đảo Hải Nam đến 1.800 km.

“Trung Quốc muốn gửi một tín hiệu đến toàn bộ khu vực”, bà Stephanie Kleine-Ahlbrandt, chuyên gia về chính sách ngoại giao của Trung Quốc thuộc Tổ chức Khủng hoảng quốc tế (International Crisis Group – ICG), nhận xét. Bà Stephanie cũng cho rằng, Trung Quốc “càng gây hấn về lãnh thổ thì càng bị xa lánh”.

Nhật Bản và Ấn Độ là những cường quốc quân sự: Ấn Độ có vũ khí hạt nhân còn Nhật Bản có hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ nên hoàn toàn có khả năng chặn đứng tham vọng ngông cuồng của Trung Quốc, còn các nước nhỏ ở Đông Nam Á quả là khó khăn trong một cuộc xung đột không cân sức với Bắc Kinh.

(theo The Globe and Mail)

Trung Quốc: người khổng lồ cô độc

Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn nhất châu Á, nhưng sức mạnh kinh tế ấy chẳng những không giúp cho nước này đạt được sự kính nể mà quan hệ với các nước láng giềng ngày càng xấu đi. Báo The Economist (Anh) đã cất công tìm hiểu nguyên nhân.

Theo Economist, nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc đã vươn tới mọi ngóc ngách của châu Á: các nhà yến ở Indonesia cung cấp tổ yến, trang trại gia cầm ở Ấn Độ cung cấp chân gà, các mỏ than đá và quặng sắt ở Úc cung cấp nguyên-nhiên liệu cho thị trường khổng lồ của Trung Quốc. Trung Quốc còn là nước xuất khẩu nhiều nhất sang Úc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật, Malaysia, Hàn Quốc và nhiều nước khác. Quan hệ thương mại với Trung Quốc đã giúp phát triển kinh tế và nâng cao đời sống ở các nước này, đó là điều khó tranh cãi được.

Tuy nhiên, càng ngày người ta càng khó chấp nhận cung cách làm ăn của Trung Quốc, từ ứng xử của từng doanh nghiệp riêng lẻ cho đến đường lối giao thương của chính phủ Bắc Kinh. Nếu các doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu ở nước ngoài chỉ sử dụng công nhân Trung Quốc với số lượng lớn, sống trong các khu biệt lập với người địa phương, du khách Trung Quốc thường kênh kiệu, thị tiền một cách vô lối… thì chính phủ Trung Quốc ngày càng sử dụng thương mại như một vũ khí chính trị để chèn ép các nước khác, mà vụ Trung Quốc hạn chế xuất khẩu đất hiếm khi tranh chấp với Nhật năm 2010 hoặc ngừng nhập khẩu chuối của Philippines khi xung đột với Manila về bãi cạn Scarborough năm 2011 là những ví dụ.

Hậu quả là khắp châu Á, quan hệ kinh tế với Trung Quốc thường được nhìn dưới con mắt hoài nghi và ác cảm. Hàng hóa giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc chẳng hạn, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng, nhưng cũng bị coi là thủ đoạn của Bắc Kinh nhằm bóp chết nền công nghiệp của các nước nhập khẩu.

Nhu cầu năng lượng và nguyên liệu của Trung Quốc góp phần thúc đẩy kinh tế các nước Úc, Indonesia, Myanmar nhưng cũng chính ở các nước này, đầu tư của Trung Quốc thường bị người địa phương coi là biểu hiện của chủ nghĩa thực dân. Cho đến nay, quyết định của Tổng thống Thein Sein được người dân Myanmar ủng hộ nhiều nhất là ngừng dự án thủy điện Myitsone; trong khi quyết định bị phản đối nhiều nhất của lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi là ủng hộ việc mở rộng việc khai thác mỏ đồng, cả hai dự án đều do Trung Quốc đầu tư ở Myanmar.

Ngay cả viện trợ cũng không mua được cho Trung Quốc sự tin cậy và tình cảm láng giềng. Cho đến nay, Trung Quốc là đồng minh duy nhất của Bắc Triều Tiên, cung cấp nhiên liệu và lương thực cũng như bảo trợ để Bình Nhưỡng né tránh các biện pháp cấm vận của Liên hiệp quốc và liên tục gây hấn. Sự “hào phóng” đó của Bắc Kinh chẳng những gây bất bình cho Nhật Bản và Hàn Quốc mà ngay cả Bắc Triều Tiên cũng tỏ ra sẵn sàng gây khó xử cho Trung Quốc.

Ở Đông Nam Á, việc Bắc Kinh tung ra 500 triệu đô la Mỹ cho Campuchia vay ưu đãi đổi lấy việc nước này bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN 2012 đã gây bất bình sâu sắc. Có thể Trung Quốc đã thành công trong việc cản trở ASEAN đoàn kết trong vấn đề biển Đông, thậm chí có thể làm suy yếu Hiệp hội này, song Bắc Kinh phải trả giá đắt là nỗi hoài nghi và khinh bỉ đã lan rộng khắp khu vực.

(Bài đăng TBKTSG số 18-2013, ngày 2-5-2013 )