Châu Á lo ngại “giấc mơ Trung Quốc”

Image

Ảnh: Hoàng Sa là của Việt Nam – mô hình khinh thuyền đi trấn thủ Hoàng Sa các thế kỷ trước được tái hiện trong lễ khao lề thế Hoàng Sa vừa tổ chức ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) cuối tuần qua. Ảnh Nguyễn Văn Minh (tuoitre.vn)

 

Hôm Chủ nhật 28-4, Trung Quốc đã đưa một con tàu du lịch chở khoảng 100 khách ra quần đảo Hoàng Sa – vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam, bất chấp lời phản đối mà Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra hôm 5-4-2013. Chuyến đi này được Chính phủ Trung Quốc khuyến khích và được báo chí nước này quảng bá rầm rộ. Hơn thế nữa, việc tính toán mở chuyến du lịch đầu tiên tới Hoàng Sa trùng vào dịp nhân dân Việt Nam kỷ niệm 38 năm ngày thống nhất đất nước càng cho thấy dã tâm và ý đồ gây hấn của Bắc Kinh. 

Dẫn tuyên bố của Việt Nam rằng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa là “không thể chối cãi”, báo The Globe and Mail của Canada nhận định, chuyến du lịch này của Trung Quốc là một hành vi xâm lược núp bóng một hoạt động kinh tế, một trong hàng loạt hành động tương tự để củng cố yêu sách chủ quyền bất hợp pháp trên lãnh thổ của các quốc gia khác và thăm dò phản ứng của các nước láng giềng.

Chuỗi hành động gây hấn của Trung Quốc đã gây lo ngại sâu sắc ở khắp châu Á và đặt nghi vấn về cái mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gọi là “giấc mơ Trung Quốc”. Ông Tập đề cập tới “giấc mơ” này bằng những lời lẽ mơ hồ như là “cuộc hồi xuân vĩ đại của đất nước Trung Hoa” nhưng những động thái gần đây cho thấy đằng sau đó chỉ là gia tăng sức mạnh quân sự để xâm lấn và chèn ép các nước láng giềng. Nhận định này càng được củng cố khi ngày 16-4 Bắc Kinh công bố sách trắng về quốc phòng, trong đó khẳng định vai trò của quân đội là “bảo vệ và hiện thực hóa giấc mơ Trung Quốc”.

“Giấc mơ Trung Quốc bao hàm giấc mơ bảo vệ an ninh hàng hải của Trung Quốc và xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc hải dương”, Ju Hailong, chuyên viên Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Jinan, viết trên Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc hôm Chủ nhật. Về chuyến du lịch tới Hoàng Sa đang diễn ra, ông Ju đe nẹt: “Những ai muốn cản trở hành động của Trung Quốc nhằm gây rối đều là người không tuân thủ luật pháp quốc tế”. Ông này giả vờ hay cố tình không biết rằng luật pháp quốc tế, mà cụ thể là Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 hoàn toàn không thừa nhận chủ quyền những lãnh thổ chiếm được bằng xâm lược vũ trang mà ai cũng biết Trung Quốc đã dùng vũ lực cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam ngày 19/1/1974.

Thực hiện “giấc mơ Trung Quốc”, hôm 15-4 bộ binh Trung Quốc, được máy bay trực thăng hộ tống, đã tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ, băng qua đường phân giới LAC (Line of Actual Control) mà hai nước đã thỏa thuận sau cuộc chiến tranh năm 1962. Hình ảnh trên truyền hình Ấn Độ cho thấy lính Trung Quốc cắm trại chỉ cách các đồn biên phòng của Ấn khoảng 100 mét ở thung lũng Depsang, phía sau đường phân giới LAC khoảng 19 km.

Ở phía đông, xung đột giữa Trung Quốc và Nhật Bản tăng tới cực điểm trong tuần qua khi Trung Quốc phái 8 tàu hải giám tới vùng đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản kiểm soát. Những ngày cuối tuần qua, tàu hải giám của Trung Quốc vẫn quẩn quanh gần đảo Senkaku và được các chiến đấu cơ Su-27, Su-30 hỗ trợ. Báo Sankei Shimbun ghi nhận có khoảng 40 lượt máy bay chiến đấu Trung Quốc lượn lờ trên bầu trời đảo Senkaku. “Một mối đe dọa chưa từng có”, một quan chức Nhật Bản nói với báo Sankei Shimbun.

Nhưng hành động gây choáng nhất của Trung Quốc là cuối tháng 3 vừa qua Bắc Kinh phái 4 tàu chiến, trong đó có một tàu đổ bộ, đến tập trận chiếm đảo ở bãi cạn James Shoal mà Malaysia tuyên bố chủ quyền. Bãi cạn này cách bờ biển Malaysia chỉ 80 km, trong khi cách điểm cực nam của Trung Quốc trên đảo Hải Nam đến 1.800 km.

“Trung Quốc muốn gửi một tín hiệu đến toàn bộ khu vực”, bà Stephanie Kleine-Ahlbrandt, chuyên gia về chính sách ngoại giao của Trung Quốc thuộc Tổ chức Khủng hoảng quốc tế (International Crisis Group – ICG), nhận xét. Bà Stephanie cũng cho rằng, Trung Quốc “càng gây hấn về lãnh thổ thì càng bị xa lánh”.

Nhật Bản và Ấn Độ là những cường quốc quân sự: Ấn Độ có vũ khí hạt nhân còn Nhật Bản có hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ nên hoàn toàn có khả năng chặn đứng tham vọng ngông cuồng của Trung Quốc, còn các nước nhỏ ở Đông Nam Á quả là khó khăn trong một cuộc xung đột không cân sức với Bắc Kinh.

(theo The Globe and Mail)

Trung Quốc: người khổng lồ cô độc

Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn nhất châu Á, nhưng sức mạnh kinh tế ấy chẳng những không giúp cho nước này đạt được sự kính nể mà quan hệ với các nước láng giềng ngày càng xấu đi. Báo The Economist (Anh) đã cất công tìm hiểu nguyên nhân.

Theo Economist, nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc đã vươn tới mọi ngóc ngách của châu Á: các nhà yến ở Indonesia cung cấp tổ yến, trang trại gia cầm ở Ấn Độ cung cấp chân gà, các mỏ than đá và quặng sắt ở Úc cung cấp nguyên-nhiên liệu cho thị trường khổng lồ của Trung Quốc. Trung Quốc còn là nước xuất khẩu nhiều nhất sang Úc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật, Malaysia, Hàn Quốc và nhiều nước khác. Quan hệ thương mại với Trung Quốc đã giúp phát triển kinh tế và nâng cao đời sống ở các nước này, đó là điều khó tranh cãi được.

Tuy nhiên, càng ngày người ta càng khó chấp nhận cung cách làm ăn của Trung Quốc, từ ứng xử của từng doanh nghiệp riêng lẻ cho đến đường lối giao thương của chính phủ Bắc Kinh. Nếu các doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu ở nước ngoài chỉ sử dụng công nhân Trung Quốc với số lượng lớn, sống trong các khu biệt lập với người địa phương, du khách Trung Quốc thường kênh kiệu, thị tiền một cách vô lối… thì chính phủ Trung Quốc ngày càng sử dụng thương mại như một vũ khí chính trị để chèn ép các nước khác, mà vụ Trung Quốc hạn chế xuất khẩu đất hiếm khi tranh chấp với Nhật năm 2010 hoặc ngừng nhập khẩu chuối của Philippines khi xung đột với Manila về bãi cạn Scarborough năm 2011 là những ví dụ.

Hậu quả là khắp châu Á, quan hệ kinh tế với Trung Quốc thường được nhìn dưới con mắt hoài nghi và ác cảm. Hàng hóa giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc chẳng hạn, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng, nhưng cũng bị coi là thủ đoạn của Bắc Kinh nhằm bóp chết nền công nghiệp của các nước nhập khẩu.

Nhu cầu năng lượng và nguyên liệu của Trung Quốc góp phần thúc đẩy kinh tế các nước Úc, Indonesia, Myanmar nhưng cũng chính ở các nước này, đầu tư của Trung Quốc thường bị người địa phương coi là biểu hiện của chủ nghĩa thực dân. Cho đến nay, quyết định của Tổng thống Thein Sein được người dân Myanmar ủng hộ nhiều nhất là ngừng dự án thủy điện Myitsone; trong khi quyết định bị phản đối nhiều nhất của lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi là ủng hộ việc mở rộng việc khai thác mỏ đồng, cả hai dự án đều do Trung Quốc đầu tư ở Myanmar.

Ngay cả viện trợ cũng không mua được cho Trung Quốc sự tin cậy và tình cảm láng giềng. Cho đến nay, Trung Quốc là đồng minh duy nhất của Bắc Triều Tiên, cung cấp nhiên liệu và lương thực cũng như bảo trợ để Bình Nhưỡng né tránh các biện pháp cấm vận của Liên hiệp quốc và liên tục gây hấn. Sự “hào phóng” đó của Bắc Kinh chẳng những gây bất bình cho Nhật Bản và Hàn Quốc mà ngay cả Bắc Triều Tiên cũng tỏ ra sẵn sàng gây khó xử cho Trung Quốc.

Ở Đông Nam Á, việc Bắc Kinh tung ra 500 triệu đô la Mỹ cho Campuchia vay ưu đãi đổi lấy việc nước này bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN 2012 đã gây bất bình sâu sắc. Có thể Trung Quốc đã thành công trong việc cản trở ASEAN đoàn kết trong vấn đề biển Đông, thậm chí có thể làm suy yếu Hiệp hội này, song Bắc Kinh phải trả giá đắt là nỗi hoài nghi và khinh bỉ đã lan rộng khắp khu vực.

(Bài đăng TBKTSG số 18-2013, ngày 2-5-2013 )

 

 

 

 

Trung Quốc – châu Phi: tuần trăng mật đã hết!

Image

Tổng thống Nam Phi Jacob Zuma và phu nhân (bên phải) đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và phu nhân tại Pretoria hôm 26-3. Ảnh Reuters.

Chuyến công du lục địa đen của tân Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình được coi là nhằm trấn an các nước châu Phi về tham vọng kinh tế của Trung Quốc.

Quan hệ không cân bằng

Trung Quốc hiện là đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của châu Phi. Theo số liệu của hải quan Trung Quốc, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Trung Quốc và châu Phi năm ngoái là 198 tỉ đô la Mỹ, tăng 19,3% so với năm 2011 và tăng 20 lần so với năm 2000. Nhưng cấu trúc của mối quan hệ thương mại này không cân bằng: năm ngoái Trung Quốc nhập khẩu từ châu Phi khoảng 113 tỉ đô la, chủ yếu là nhiên liệu và khoáng sản như dầu mỏ, quặng kim loại và bán sang châu phi hàng hóa công nghiệp như quần áo may sẵn, đồ điện tử gia dụng. Khoáng sản chiếm 80% giá trị nhập khẩu của Trung Quốc từ châu Phi, theo báo Economist; còn hàng hóa Trung Quốc, tuy phần nào giúp người dân cải thiện cuộc sống nhưng lại góp phần triệt tiêu các doanh nghiệp địa phương, gây hại cho nỗ lực công nghiệp hóa của lục địa này.

Đầu tư của Trung Quốc thì khó đo lường hơn. Mùa hè năm ngoái, Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Trần Đức Minh (Chen Deming) cho biết, tổng vốn đầu tư của Trung Quốc tại châu Phi đã vượt quá 14,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 60% so với năm 2009; một thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đưa ra con số 15,3 tỉ đô la vốn đầu tư vào cuối năm 2012 và hiện có tới 800 doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc hoạt động tại châu Phi. Vốn đầu tư của Trung Quốc tại châu Phi cũng tập trung vào các dự án khai khoáng để cung ứng nguyên liệu cho nền kinh tế Trung Quốc. Mãi đến gần đây, đầu tư của Trung Quốc tập trung vào những quốc gia có trữ lượng khoáng sản lớn như Algeria, Nigeria, Nam Phi, Zambia, Congo nhưng Trung Quốc cũng mạnh dạn đầu tư cả ở những quốc gia nhiều bất ổn như Sudan, Zimbabwe – là những nơi các doanh nghiệp nước ngoài khác né tránh.

Cùng với sự gia tăng thương mại và đầu tư, đã diễn ra làn sóng di cư của người Trung Quốc sang châu lục này. Số liệu thống kê chưa đầy đủ cho biết hiện đã có hơn 1 triệu người Hoa sinh sống và làm ăn ở châu Phi, phần lớn làm trong các dự án đầu tư và kinh doanh của Trung Quốc, một số ít tự tổ chức kinh doanh hoặc làm dịch vụ. Bất đồng về văn hóa, lối sống, về cung cách làm việc đã dẫn tới không ít những vụ va chạm giữa các công nhân, quản lý người Trung Quốc với công nhân địa phương, chẳng hạn như vụ một viên quản lý mỏ than tại Zambia bị các công nhân đình công đòi tăng lương giết chết hồi tháng 8-2012 vừa qua. Theo báo Economist, mới đây tòa án Algeria đã cấm hai công ty Trung Quốc tham gia đấu thầu các dự án công, chính quyền Gabon hủy bỏ một hợp đồng khai khoáng, chính quyền Nam Sudan trục xuất Liu Yingcai, giám đốc Petrodar – một liên doanh dầu khí Trung Quốc-Malaysia, khách hàng lớn nhất của Nam Sudan – vì tội biển thủ một lượng dầu trị giá 815 triệu đô la v.v…  Một số quốc gia như Malawi, Tanzania, Uganda và Zambia đặt ra những luật lệ giới hạn lĩnh vực mà công ty Trung Quốc được tham gia kinh doanh nhằm bảo vệ các doanh nghiệp địa phương trong ngành nông nghiệp và bán lẻ.

Thời trăng mật đã qua?

Nhìn lại quan hệ giữa Trung Quốc và châu Phi trong thời gian qua, nhà nghiên cứu Anna Alve nhận xét: “Châu Phi và Trung Quốc đã thực sống một thiên tình sử từ một thập kỷ qua. Nhưng tuần trăng mật từ nay đã chấm dứt… Nhẹ nhàng nhưng chắc chắn, các nước châu Phi ý thức về nguy cơ của một kiểu đô hộ mới”, bà Alve nói trên báo Pháp Le Monde. Còn trên báo Anh Financial Times, ông Lamido Sanusi, Thống đốc Ngân hàng trung ương Nigeria tỏ ra gay gắt hơn: “Trung Quốc lấy nguyên liệu của chúng tôi và bán cho chúng tôi sản phẩm công nghiệp. Đây chính là bản chất của chủ nghĩa thực dân”.

Ngoài sự chống đối của người dân mới khởi phát ở châu Phi, Trung Quốc còn phải đương đầu với một thách thức mới: sự cạnh tranh từ các nền kinh tế mới nổi khác như Ấn Độ, Nga, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ và Hàn Quốc – những quốc gia cũng đi theo con đường tìm kiếm tài nguyên và thị trường ở châu Phi mà Trung Quốc đang đi. Thương mại hai chiều giữa châu Phi và Ấn Độ chẳng hạn, đã xấp xỉ bằng một nửa so với Trung Quốc.

Lựa chọn châu Phi làm điểm công du thứ hai sau Nga, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn chứng tỏ châu lục này là ưu tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao, kinh tế của Trung Quốc. Tại điểm dừng chân đầu tiên ở Tanzania, ông Tập đã có bài phát biểu nêu tóm tắt những chính sách của Trung Quốc mà trọng tâm là gia tăng viện trợ và đầu tư ở châu lục này; chẳng hạn Trung Quốc cam kết cung cấp 20 tỉ đô la Mỹ trong 3 năm (2013-2015) để giúp các nước châu Phi phát triển hạ tầng, nông nghiệp và kinh doanh; cấp 18.000 học bổng cho sinh viên châu Phi v.v… Tại Tanzania – nơi mà Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai, hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, khai thác than đá, quặng sắt và xây dựng đường sá, ông Tập đã chứng kiến lễ ký kết 16 dự án cải thiện cơ sở hạ tầng, cảng biển và xây dựng một trung tâm văn hóa Trung Quốc. “Trung Quốc thành thật hy vọng được nhìn thất các quốc gia châu Phi phát triển nhanh hơn, người châu Phi có cuộc sống tốt đẹp hơn”, ông Tập nói.

Tuy nhiên, theo Reuters, ông Tập cũng thừa nhận, quan hệ giữa Trung Quốc và châu Phi đang có những căng thẳng. “Trung Quốc đang đối mặt với những hoàn cảnh mới, những vấn đề mới trong quan hệ Trung-Phi. Nhưng Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục cùng với các nước châu Phi tìm ra những giải pháp thực tế để giải quyết một cách thích đáng những vấn đề về thương mại và hợp tác kinh tế để châu Phi thu được nhiều lợi ích hơn từ sự hợp tác này”, ông Tập nói.

 

 

Ông Tập Cận Bình cũng đã đến thủ đô Pretoria của Nam Phi và tham dự Hội nghị thượng đỉnh khối BRICS (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) trong hai ngày 26 và 27-3-2013. Hội nghị này dự kiến sẽ phê chuẩn việc hình thành một quỹ ngoại hối chung và một ngân hàng phát triển hạ tầng để giúp các nền kinh tế đang phát triển giảm bớt sự lệ thuộc vào Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế – vốn được coi là phản ánh quyền lợi của Mỹ và các nước công nghiệp.

Chuyến công du châu Phi của ông Tập sẽ kết thúc sau khi thăm Cộng hòa Congo, nơi cung cấp cho Trung Quốc 5,95 tỉ thùng dầu vào năm ngoái.

Biển Đông cần có luật

Tình hình biển Đông lại nóng lên vào cuối tuần qua khi báo chí tiết lộ một vụ “chạm trán” giữa tàu chiến Ấn Độ INS Airavat với hải quân Trung Quốc ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam hôm 22-7.

Thời báo Tài chính Anh (Financial Times) và mạng Rediff.com dẫn lời Bộ Ngoại giao Ấn Độ cho biết, vụ chạm trán xảy ra khi tàu INS Airavat của hải quân Ấn Độ vừa rời cảng Nha Trang và trên đường đến Hải Phòng để tiếp tục thực hiện chuyến thăm Việt Nam từ 19-22/7. “Ở vị trí cách bờ biển Việt Nam 45 hải lý (83 ki lô mét) trên biển Đông, tàu INS Airavat nhận được cảnh báo trên sóng radio của một người xưng danh là lực lượng hải quân Trung Quốc nói rằng ‘con tàu đang đi vào vùng biển Trung Quốc’ và yêu cầu tàu INS Airavat phải chuyển hướng, nhưng con tàu vẫn tiếp tục hải trình của mình”, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Ấn Độ đưa ra ngày 1-9 vừa qua cho biết. Tuy xác nhận “không có vụ đụng độ” nào liên quan tới tàu INS Airavat nhưng New Delhi cũng nhắc lại nguyên tắc: “Ấn Độ ủng hộ quyền tự do hàng hải trên các vùng biển quốc tế, kể cả biển Đông và quyền thông thương phù hợp với những nguyên tắc đã được thừa nhận của luật pháp quốc tế”. Từ Bắc Kinh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Chiêu Húc nói rằng, Trung Quốc đã nêu câu hỏi với “các cơ quan có thẩm quyền” về sự cố này nhưng chưa nhận được thông tin cũng như chưa nhận được phản đối ngoại giao nào của Ấn Độ. Sự cố với tàu hải quân Ấn Độ gợi nhớ vụ Trung Quốc cản trở hoạt động của tàu Impeccable thuộc hải quân Mỹ ở ngoài khơi Đà Nẵng tháng 3-2009.

Những sự cố tưởng như nhỏ nhặt này cho thấy bước chuyển biến trong chính sách của Trung Quốc: tăng cường xác lập chủ quyền trên 80% diện tích biển Đông trong phạm vi đường lưỡi bò 9 khúc mà Trung Quốc đã vạch ra. Cần nhắc lại rằng, Trung Quốc không chỉ tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà còn coi toàn bộ khu vực biển Đông như lãnh hải (territorial waters) của mình. Một số nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia và Đài Loan không chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc cả về chủ quyền các quần đảo lẫn mặt biển Đông. Thực chất, tranh chấp ở biển Đông bao gồm các tranh chấp đa phương giữa Trung Quốc với các nước nói trên, song phương giữa những nước này với nhau về chủ quyền các đảo, lẫn tranh chấp giữa Trung Quốc với tất cả các nước về chủ quyền biển Đông – nơi có tuyến thương mại hàng hải quan trọng nhất thế giới.

Nếu như trước đây Trung Quốc khá mềm mỏng trong vấn đề tự do lưu thông hàng hải trên biển Đông để tập trung đẩy mạnh đòi hỏi chủ quyền các quần đảo thì những sự cố gần đây cho thấy Bắc Kinh bắt đầu không chấp nhận cho hải quân các nước khác đi lại trên vùng biển Đông mà họ coi là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu đòi hỏi của Trung Quốc về chủ quyền các quần đảo chỉ liên quan tới một số quốc gia nhỏ và yếu thì việc đòi chủ quyền trên biển Đông đã đụng đến quyền lợi thiết thân của tất cả các nước, trong các trường hợp trên là Mỹ và Ấn Độ.

Cuộc tranh giành ảnh hưởng trên biển giữa Trung Quốc và Ấn Độ kéo dài đã nhiều năm, mỗi bên đều cố gắng hiện diện và gây ảnh hưởng trên sân của đối phương; nếu Trung Quốc có chiến lược “chuỗi ngọc trai” – xây dựng hàng loạt hải cảng và căn cứ hải quân ở ven Ấn Độ Dương thì Ấn Độ cũng triển khai chiến lược “nhìn về phương Đông” và gia tăng hoạt động ở Thái Bình Dương. Cả hai nền kinh tế này đều đói năng lượng trầm trọng, đều nhắm tới các nguồn tài nguyên khoáng sản được cho là rất dồi dào dưới lòng biển và đều có nhu cầu bảo đảm con đường vận chuyển hàng hóa và năng lượng.

Chiến lược lấn sân nhau của hai cường quốc đông dân nhất hành tinh có nguy cơ đẩy khu vực biển Đông thành điểm nóng. Một ngày nào đó, những xung đột không được giải quyết thấu đáo, cuộc cạnh tranh giành tài nguyên thiên nhiên, vị thế và ảnh hưởng sẽ có thể thổi bùng lên ngọn lửa xung đột vũ trang mà hậu quá khó mà lường trước được, nhất là trong bối cảnh các bên thiếu tin cậy lẫn nhau và thiếu các luật lệ ngăn cản sự đối đầu.

Do vậy, việc khẩn cấp là phải hình thành ngay những luật lệ điều chỉnh hoạt động đi lại trên các vùng biển quốc tế như biển Đông, thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin giữa lực lượng hải quân các nước liên quan, có cơ chế ngăn ngừa và xử lý vấn đề ngay khi chớm xảy ra mà không để chúng leo thang thành xung đột. Trước mắt, thế giới phải hành động để Ấn Độ không được ứng xử theo kiểu Ấn Độ Dương là “đại dương của Ấn Độ” và Trung Quốc không được coi “biển Nam Trung Hoa” (South China Sea, tức biển Đông) là biển riêng của Trung Quốc.

Một cơ chế ngăn ngừa khủng hoảng như vậy ít nhất cần có sự tham gia tích cực của các cường quốc thương mại và hàng hải như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ, Indonesia và Mỹ. Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) mà Trung Quốc ký kết với ASEAN năm 2002, cũng như Bộ quy tắc ứng xử (COC) có thể hình thành trong tương lai gần sẽ không đủ để vãn hồi sự ổn định ở khu vực thiết yếu này khi trên đấu trường đã xuất hiện thêm một số tay chơi mới.

Có điều, xưa nay Trung Quốc vẫn phớt lờ luật lệ quốc tế khi quyền lợi của mình bị đụng chạm, hoặc diễn giải các luật lệ đó theo hướng có lợi cho Bắc Kinh cho nên rất khó để buộc Trung Quốc phải hành xử như một cường quốc có trách nhiệm ở biển Đông.

Biển Đông cần có luật

Sao đổi ngôi?


Huỳnh Hoa

 

Hàng loạt tin xấu từ Mỹ và châu Âu đã thổi bùng lên “tâm trạng chiến thắng” ở các quốc gia đang phát triển châu Á, nhất là ở Trung Quốc. Nhiều người nghĩ rằng, lời tiên đoán về “cuộc chuyển dịch quyền lực toàn cầu không thể nào cưỡng lại sang phương Đông” (nhan đề một cuốn sách của Kishore Mahbubani, hiện là Hiệu trưởng Trường chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore) dường như đã xảy ra nhanh hơn dự kiến. Và người ta đã bắt đầu nói tới hiện tượng “sao đổi ngôi” giữa phương Tây và phương Đông, giữa hai cường quốc kinh tế hàng đầu: Mỹ và Trung Quốc.

Thật ra, ý tưởng về sự thắng thế của mô hình tư bản nhà nước kiểu Trung Quốc so với nền kinh tế tự do thị trường kiểu Mỹ đã xuất hiện vài năm trước và được củng cố nhờ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Còn nhớ tại Diễn đàn kinh tế thế giới Davos 2009, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo lần đầu tiên đã cực lực phê phán mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa “tham lam quá độ” như là cội nguồn gây ra cuộc khủng hoảng đó mà không thừa nhận nguyên nhân sâu xa của tình hình là sự mất cân bằng trên quy mô toàn cầu một phần do những chính sách trọng thương của chính Trung Quốc.

Gần đây, sự bế tắc kéo dài của châu Âu trong việc tìm biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp dẫn tới sự lây lan của khủng hoảng sang các nền kinh tế mạnh như Tây Ban Nha và Ý, sự giằng co giữa hai đảng Dân chủ và Cộng hòa trong việc thỏa thuận mức trần nợ công của Mỹ dẫn tới việc tín nhiệm tín dụng của Mỹ bị hạ bậc, rối ren trong việc chọn người lãnh đạo đất nước ở Nhật Bản… càng cho thấy những khuyết điểm trong cơ chế điều hành các nền dân chủ và thúc đẩy quan niệm về tính ưu việt của mô hình Bắc Kinh mà theo Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo, có đặc điểm là “ban hành quyết định nhanh chóng, tổ chức thực hiện hiệu quả”.

***

Biểu hiện mới nhất của “tâm lý chiến thắng” của người Trung Quốc là các cuộc gặp gỡ giữa Phó tổng thống Mỹ Joe Biden và Phó chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh trong tuần qua. Theo báo New York Times, ông Tập đã nhấn mạnh để người Mỹ hiểu rằng, vị thế của đôi bên đã thay đổi. Theo ông Tập, Mỹ không còn là nguồn duy nhất về vốn liếng và công nghệ, Trung Quốc cũng không còn là nguồn lao động công nghiệp giá rẻ. “Càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sang Mỹ đầu tư, đóng góp vào sự tăng trưởng của kinh tế Mỹ và tạo ra công ăn việc làm”, ông Tập nói. Và trong nỗi lo ngại trước cái gọi là cuộc suy thoái kép của kinh tế Mỹ tác động tiêu cực đến Trung Quốc, các nhà lãnh đạo nước này đã đưa vấn đề nợ công đang gia tăng và mối quan tâm đến sức mạnh kinh tế Mỹ thành chủ đề trung tâm trong các cuộc thảo luận với ông Biden. “Hoa Kỳ phải giữ lời và tuân thủ các nghĩa vụ của mình liên quan tới nợ chính phủ, sẽ bảo đảm sự an toàn, tính thanh khoản và giá trị các trái phiếu kho bạc Mỹ”, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói với ông Biden. Báo chí chính thống Trung Quốc thì không ngớt đưa ra những bài bình luận phê phán Mỹ “bị mắc bệnh nghiện nợ”, đòi Mỹ phải “chi tiêu trong khả năng thanh toán”, thậm chí yêu cầu chính phủ Mỹ phải giảm ngân sách quân sự để giảm nợ…

Trong bối cảnh đó những khuyến nghị của ông Biden như Trung Quốc cần xây dựng nền kinh tế bền vững hơn, phụ thuộc nhiều vào tiêu dùng nội địa hơn là xuất khẩu và sự tái cân bằng như vậy không chỉ giúp thúc đẩy tăng trưởng ở Mỹ và các quốc gia khác và mà còn xử lý những khiếm khuyết mang tính cơ cấu của chính nền kinh tế Trung Quốc… đã bị các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh tiếp nhận một cách lạnh nhạt và hờ hững.

***

Nhưng có thật là sao đã đổi ngôi hay không? Không ai phủ nhận rằng, so với thời kỳ Chiến tranh Lạnh, vị thế và sức mạnh kinh tế của châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, đã tăng lên một cấp độ mới và có thể nói trọng tâm quyền lực thế giới đang chuyển dần về phương Đông. Tuy nhiên, hãy còn quá sớm để nói tới sự thoái trào của phương Tây, cũng như đối lập Tây-Đông là không có cơ sở. Thực tế cho thấy, do tác động của toàn cầu hóa, kinh tế và xã hội phương Tây và phương Đông đã gắn kết vào nhau chặt chẽ đến mức cả hai cùng thắng hoặc cùng thua, chỉ cần một bên hắt hơi thì bên kia cũng sổ mũi. Nói cách khác, phương Đông sẽ không thể tăng trưởng khi phương Tây suy thoái và ngược lại.

Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ rằng nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của họ chỉ có thể tăng trưởng khi nhu cầu tiêu thụ của Mỹ và phương Tây vẫn mạnh, các đồng tiền phương Tây giữ được giá trị, ngược lại thì châu Á và Trung Quốc sẽ là những người bị thiệt hại đầu tiên. Những biện pháp thắt lưng buộc bụng đang được thực hiện ở châu Âu và chính sách cắt giảm chi tiêu của Mỹ đã bắt đầu làm cho guồng máy sản xuất của Trung Quốc bị chậm lại, số nhà máy phải đóng cửa tăng lên. Ngay trong lĩnh vực tiền tệ, quỹ ngoại hối 3.200 tỉ đô la đang là cơn đau đầu của Bắc Kinh khi đồng đô la Mỹ và đồng euro châu Âu liên tục bị mất giá so với vàng và các ngoại tệ khác.

Báo Straits Times của Singapore cho rằng, quan niệm “tách rời” (decoupling) giữa phương Tây và phương Đông chỉ là một “ảo tưởng” (pipe dream). Sự gắn bó giữa các nền kinh tế đã sâu đậm đến mức tất cả các bên đều phải hành động một cách có trách nhiệm. Nếu phương Tây tiếp tục chi tiêu bằng tiền của người khác và Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách “làm nghèo hàng xóm” để thủ lợi cho riêng mình thì thảm họa suy thoái kinh tế toàn cầu là khó tránh khỏi.

Và khi ấy sẽ không còn ngôi sao nào nữa!

(Bài đăng trên TBKTSG số 35, ngày 25-8-2011)