Ngày về của Karl Marx

(Nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 195 của Karl Marx (1818-1883):

Image“Vào ngày 14 tháng Ba (năm 1883), lúc ba giờ kém mười lăm chiều, nhà tư tưởng vĩ đại nhất đã ngừng suy nghĩ. Ông ngồi một mình trong hai phút đồng hồ và khi chúng tôi quay lại, chúng tôi thấy ông vẫn ngồi trong ghế bành, bình thản đi vào giấc ngủ – ngàn thu”. Đó là giây phút cuối cùng của Karl Marx, qua lời kể của F. Engels, bạn chiến đấu và thân thiết nhất của ông, người luôn coi Marx là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất”. Vài hôm sau, ngày 17/3, tang lễ của ông diễn ra trong thầm lặng, chỉ có khoảng mười người thân quen đưa ông đến nghĩa trang Highgate ở ngoại ô London nước Anh.

Karl Marx đã qua đời như một người lưu vong, không tổ quốc, nhưng tư tưởng của ông về cách mạng vô sản đã không đi cùng ông xuống mồ mà trái lại, đã dẫn dắt thế giới vào những cuộc biến động long trời lở đất suốt một thế kỷ sau và tiếp tục ảnh hưởng tới con đường đi của thế giới ngày nay.

*

Vài thập niên trước, nhiều người tin rằng, Karl Marx đã thực sự nhắm mắt xuôi tay khi học thuyết của ông về cách mạng vô sản, về mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp như là động lực của lịch sử, đã bị vùi lấp trong cuộc chạy đua làm giàu diễn ra khắp thế giới. Khi Liên xô – thành trì của chủ nghĩa xã hội, sụp đổ và vỡ vụn, và Trung Quốc thực hiện “đại nhảy vọt” vào chủ nghĩa tư bản, có nhà nghiên cứu phương Tây đã tuyên bố: “Karl Marx đã được chôn cất”.

Có vẻ như chính chủ nghĩa tư bản, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản, đã góp phần hiện thực hóa giấc mơ của Karl Marx cách đây gần hai thế kỷ: tự do thương mại và đầu tư, toàn cầu hóa kinh tế, đã cung cấp cho mọi người nhiều cơ hội để trở nên giàu có, thoát khỏi kiếp làm thuê, bán sức lao động cho các ông chủ tư bản. Châu Á chẳng hạn, trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, đã đạt được một thành tích xóa đói giảm nghèo có lẽ là ấn tượng nhất trong lịch sử loài người nhờ vào chính những công cụ của chủ nghĩa tư bản.

Thế nhưng, những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính liên tục xảy ra với quy mô ngày càng nghiêm trọng từ năm 1997 đến nay lại khiến người ta nhớ tới Karl Marx và những lời buộc tội của ông đối với chủ nghĩa tư bản. Marx đưa ra lý thuyết rằng hệ thống tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ làm bần cùng hóa quần chúng khi của cải của thế giới bị tập trung vào tay của một thiểu số tham lam, gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế và làm gia tăng xung đột giữa người giàu với giai cấp lao động. “Tích lũy của cải vào cực này thì cũng đồng thời tích lũy vào cực kia niềm đau khổ, nỗi thù hận lao động nặng nhọc, tình trạng nô lệ, sự ngu dốt, dã man và sự xuống cấp về tinh thần”, Marx đã viết như thế.

*

Có nhiều bằng chứng cho thấy có lẽ Karl Marx đã đúng: người giàu đang trở nên giàu hơn trong khi người nghèo càng nghèo hơn. Hãy xem nước Mỹ – trường hợp điển hình nhất của chủ nghĩa tư bản. Một nghiên cứu hồi tháng 9-2012 của Viện Chính sách kinh tế (EPI) ở Washington lưu ý rằng mức trung vị (median) thu nhập hàng năm của một người lao động là nam giới, làm việc toàn thời gian, năm 2011 là 48.022 USD, thấp hơn mức năm 1973. Trong thời gian từ 1983 đến 2010, 74% sự gia tăng về tài sản ở Mỹ rơi vào tay 5% dân số là những người giàu nhất, trong khi tài sản của 60% dân số là người nghèo thì bị suy giảm, theo tính toán của EPI.

Xu thế tích lũy của cải vào một nhóm nhỏ trong xã hội đã đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, làm gia tăng sự bất công, căng thẳng và xung đột xã hội. Tình trạng bất công càng lan rộng thì lời tiên đoán của Marx càng tỏ ra đúng: mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp đang xuất hiện trở lại trong xã hội: người lao động khắp thế giới đang tỏ ra giận dữ với trật tự hiện hành và đòi phải được chia phần công bằng hơn trong chiếc bánh kinh tế toàn cầu. Đấu tranh đang diễn ra từng ngày trong các nghị trường ở Mỹ, châu Âu, trên các đường phố ở Hy Lạp, Tây Ban Nha chung quanh những vấn đề việc làm, thu nhập và chính sách xã hội, trong các xưởng máy ở Bangladesh, Trung Quốc chung quanh chuyện tăng lương, giảm giờ làm, bảo đảm an toàn cho người lao động.

Ngay tại nước Mỹ, căng thẳng giữa các giai tầng về kinh tế đang gia tăng, xã hội bị chia rẽ giữa đa số 99% (have-nots – người dân bình thường cố gắng để sống) và 1% (“haves” – những người giàu và cực giàu nhờ đặc quyền và quan hệ, mỗi ngày một giàu hơn). Trong một cuộc thăm dò dư luận do Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến hành năm ngoái, có hai phần ba số người được hỏi ý kiến tin rằng nước Mỹ đang khốn khổ vì mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo ở mức độ “nghiêm trọng” và “rất nghiêm trọng”, tăng 19% so với kết quả khảo sát năm 2009 và mâu thuẫn giàu-nghèo được coi là mối phân liệt lớn nhất trong xã hội.

Sự chia rẽ này đang thống trị nền chính trị Mỹ. Những cuộc thương lượng về giải pháp giảm thâm hụt ngân sách chẳng hạn, đã thực sự biến thành cuộc đấu tranh giai cấp trên chính trường Mỹ. Khi tổng thống Barack Obama đề nghị tăng thuế thu nhập của những người giàu, có thu nhập hàng năm trên 250.000 đô la Mỹ, để giúp cân bằng ngân sách quốc gia, những chính trị gia bảo thủ đã lập tức lên án ông tiến hành “chiến tranh giai cấp” chống lại người giàu. Đảng Cộng hòa bảo thủ cũng phát động cuộc “chiến tranh giai cấp” của họ khi kiên quyết chuyển gánh nặng ngân sách lên vai người nghèo và tầng lớp trung lưu bằng cách cắt giảm các chương trình phúc lợi xã hội. Trong cuộc tranh cử cuối năm 2012 vừa qua, ông Obama đã không ít lần tố cáo những người Cộng hòa “vô cảm” với các tầng lớp lao động trong xã hội Mỹ.

Ở Pháp – nền kinh tế lớn nhất nhì châu Âu – cuộc đấu tranh giai cấp mới còn rõ ràng hơn nữa. Tổng thống Francois Hollande, thuộc đảng Xã hội, đã từng nói thẳng: “Tôi không thích người giàu”. Nhiều người Pháp, đau khổ vì khủng hoảng tài chính, cắt giảm ngân sách làm cho hố ngăn cách giàu-nghèo càng rộng ra, đã bỏ phiếu cho ông Hollande, ủng hộ chủ trương lấy bớt của cải của người giàu để duy trì nhà nước phúc lợi của Pháp. Để không phải thực thi những biện pháp “thắt lưng buộc bụng” nhằm cân bằng ngân sách như các nhà lãnh đạo châu Âu khác, tổng thống Hollande đã chọn cách tăng thuế lên người giàu, có tài sản trên 1,2 triệu euro và đề xuất thuế suất thuế thu nhập cao nhất lên tới 75%. Đề xuất của ông đã bị Hội đồng Hiến pháp của Pháp bác bỏ nhưng có những dấu hiệu cho thấy ông Hollande vẫn tiếp tục tìm cách thực hiện lời cam kết với cử tri là cải tổ cách phân phối thu nhập, khắc phục những bất công có khả năng gây bất ổn xã hội.

Nhưng có lẽ Trung Quốc – một đất nước theo chủ nghĩa xã hội nhưng thực tế đã quay lưng với Karl Marx – mới là nơi có khoảng cách giàu-nghèo rộng nhất và doãng ra nhanh nhất. Từ một xã hội tương đối bình đẳng và nghèo khó thời Mao Trạch Đông, sau vài thập niên mở cửa làm ăn, nhờ tận dụng những thời cơ do toàn cầu hóa mang lại và khai thác tính năng động của khối dân số đông nhất thế giới – Trung Quốc đã vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhưng trong thời gian này, tính chất bình đẳng của xã hội Trung Quốc trước đây cũng nhanh chóng bị thay thế bởi sự phân liệt giữa một nhóm nhỏ những người cực giàu và đông đảo các tầng lớp lao động ở nông thôn, lao động di cư ở các đô thị. Bất bình đẳng xã hội, đo bằng chỉ số Gini, ở Trung Quốc thuộc loại cao nhất thế giới. Một cuộc khảo sát của Trung tâm Pew cũng ghi nhận có tới hơn một nửa số người Trung Quốc được hỏi ý kiến cho rằng khoảng cách giàu-nghèo là vấn đề nghiêm trọng, có 8 trong 10 người đồng ý rằng ở Trung Quốc, người giàu ngày càng giàu và người nghèo ngày càng nghèo đi.

Chính thực tế bất công này đã kích hoạt các cuộc biểu tình phản đối ở Trung Quốc – mà ngôn ngữ của chính quyền gọi là “biến cố đông người”. Khó có thể thống kê đầy đủ tình trạng tranh chấp chủ-thợ diễn ra ở Trung Quốc nhưng các chuyên gia đều cho rằng có thể lên tới hàng ngàn vụ mỗi năm. Một thế hệ người lao động mới của Trung Quốc, có thông tin đầy đủ hơn cha anh họ nhờ mạng Internet, đã trở nên mạnh mẽ hơn trong cuộc đấu tranh đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc.

*

Sau khi xác định bản chất cố hữu của hệ thống tư bản chủ nghĩa là bất công, Karl Marx tiên đoán giai cấp vô sản sẽ đoàn kết lại và lật đổ hệ thống này, thay thế nó bằng một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, tốt đẹp hơn; “chuyên chính tư sản” phải được thay bằng “chuyên chính vô sản”.

Trong “Tuyên ngôn của đảng Cộng sản” xuất bản năm 1848, Marx từng khẳng định “Những người Cộng sản công khai tuyên bố rằng chỉ có thể đạt được các mục tiêu của mình thông qua việc lật đổ bằng bạo lực toàn bộ các điều kiện xã hội hiện hành” và “Giai cấp vô sản không có gì để mất ngoài xiềng xích”. Ngọn lửa cách mạng, theo Marx, sẽ bùng cháy khi người lao động vô sản đoàn kết, liên hiệp lại chung quanh những quyền lợi chung của giai cấp mình. Câu khẩu hiệu lừng danh, được khắc trên bia mộ của ông, “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” đã trở thành lời hiệu triệu của tất cả các đảng cộng sản và công nhân toàn thế giới suốt thế kỷ 20.

Thế nhưng, dường như “đoàn kết” (để đấu tranh) là “đức tính” khá yếu ớt của tầng lớp lao động hiện đại. Công nhân lao động có thể cùng đối mặt với những vấn đề giống nhau: thất nghiệp, thu nhập thấp, điều kiện làm việc khắc nghiệt… nhưng dường như họ vẫn không liên hiệp với nhau để giải quyết những vấn đề đó. Phong trào “Chiếm phố Wall” sôi nổi một thời ở bên Mỹ rồi cũng tan biến mà chẳng để lại dấu ấn gì. Các cuộc biểu tình rầm rộ ở châu Âu chẳng hạn dường như không nhắm tới mục tiêu lâu dài, càng không nhằm lật đổ “bằng bạo lực” cái trật tự xã hội hiện tồn. Jacques Rancière, giáo sư triết học Marxism của Đại học Paris, Pháp, lưu ý rằng người biểu tình hiện thời không đặt mục tiêu thay thế chủ nghĩa tư bản mà chỉ cải tổ nó. “Chúng tôi không thấy các giai cấp phản kháng kêu gọi lật đổ hoặc thủ tiêu các hệ thống chính trị-xã hội hiện tồn. Ngày nay, xung đột giai cấp chỉ sản sinh ra những lời kêu gọi cải tổ hệ thống bằng cách tái phân phối nguồn của cải tạo ra để hệ thống trở nên linh hoạt hơn, bền vững hơn trong dài hạn”, ông Rancière nói.

Ngay cả ở Trung Quốc, dưới sự cai trị của đảng cộng sản nhưng các ông chủ tư bản vẫn được trọng vọng hơn người lao động. Để xoa dịu nỗi bất mãn của người lao động, đảng và Chính phủ Trung Quốc đã có những biện pháp như tăng mức lương tối thiểu để tăng thu nhập của công nhân, sửa luật lao động để nhà máy khó sa thải công nhân hơn v.v… nhưng né tránh những biện pháp mạnh mẽ hơn nhằm tái lập công bằng xã hội, chẳng hạn như triệt tiêu nạn tham nhũng. Ngay cả việc lập ra những tổ chức nghiệp đoàn độc lập với giới chủ và với chính quyền để thật sự đại diện cho quyền lợi của người lao động cũng bị cấm đoán gắt gao.

Khách quan mà nói, nỗi bất mãn với sự bất công của hệ thống tư bản chủ nghĩa đã giúp phục hồi thế lực của xu thế chính trị thiên tả ở các nước phương Tây, sau hơn 30 năm thống trị bởi các chính trị gia cánh hữu như tổng thống Ronald Reagan và thủ tướng Margaret Thatcher (xem thêm “Sự trở lại của cánh tả” – TBKTSG số 43/2011, tại đây). Nhưng các chính phủ của ông Obama và ông Hollande không có ý định xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Mỹ và Pháp, càng không muốn thay thế “chuyên chính tư sản” bằng “chuyên chính vô sản” như mong muốn của Karl Marx.

Dù sao, đã hơn 160 năm trôi qua từ ngày Marx đưa ra những ý niệm ban đầu về đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa cộng sản. Thực tế lịch sử đã không như Marx tiên đoán, và chủ nghĩa tư bản, dù vẫn bất công và thối nát, nhưng không còn là thứ chủ nghĩa tư bản hoang dã tàn bạo như thời Marx sống. “Bạo lực” cũng không còn là phương thức duy nhất mà người lao động lựa chọn để thay đổi số phận của giai cấp, của chính mình. Nhiều người vin vào thực tế này để tuyên bố rằng chủ nghĩa Marx đã chết.

Tuy nhiên trong những ngày khốn khó vì khủng hoảng kinh tế-tài chính, vì thất nghiệp, vật giá leo thang, người ta lại căm giận người giàu, căm giận cái hệ thống xã hội bất công và nhớ tới Karl Marx cùng tấm lòng ưu thời mẫn thế của ông. Marx không chỉ chẩn đoán ra những khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản mà còn dự liệu kết quả của những khiếm khuyết ấy. Nếu các chính trị gia hiện đại không tìm ra được phương cách nào hữu hiệu để tái lập sự công bằng về cơ hội kinh tế giữa các giai cấp thì biết đâu, tức nước vỡ bờ, người lao động lại sẽ phải “liên hiệp lại” như lời tiên tri của Karx Marx?

Thách thức từ Trung Quốc

Robert W. Merry (*)

The National Interest, ngày 21/08/2012

Hoàng Nguyễn dịch

Trung Quốc là mối đe dọa chiến lược lớn nhất của Hoa Kỳ” và Hoa Kỳ phải làm gì để đối phó với thách thức ấy? Bài của Robert W. Merry – tiếp theo bài nghị luận của TNS James Webb mà Bauxite Việt Nam đã giới thiệu (ở đây) – đề xuất những chính sách ngoại giao mà Hoa Kỳ cần thực hiện trong nhiệm kỳ tổng thống sắp tới trước mối đe dọa từ Trung Quốc. Tuy viết cho độc giả là công chúng Hoa Kỳ, những ý kiến và đề xuất chính sách này một lần nữa khẳng định thực tế: vấn đề Biển Đông không phải, và không thể, là chuyện “song phương” giữa Trung Quốc và các nước láng giềng mà là một vấn đề toàn cầu, một tâm điểm trong mối quan hệ giữa các cường quốc và do đó đòi hỏi một giải pháp đa phương mang tầm quốc tế. (ND)

Bài nghị luận mới đây của Thượng nghị sĩ James Webb trên báo Wall Street Journal là lời cảnh báo mạnh mẽ cho người sẽ làm chủ Phòng Bầu dục của Nhà Trắng sau ngày đăng quang vào tháng Giêng năm tới, cho dù người đó là Tổng thống Obama trong nhiệm kỳ thứ hai hoặc đối thủ từ đảng Cộng hòa Mitt Romney trong nhiệm kỳ thứ nhất. Ông Webb, đảng Dân chủ bang Virginia, người sẽ rời chiếc ghế ở Thượng viện sau cuộc bầu cử vào tháng 11-2012, đã kêu gọi chú ý tới sự lộng hành tăng nhanh chưa từng thấy của Trung Quốc trong việc đòi hỏi chủ quyền những khu vực rộng bao la ở châu Á, bao gồm 200 hòn đảo (trong nhiều trường hợp chỉ là những núi đá không cư trú được nhưng có ý nghĩa về chiến lược) và hai triệu ki-lô-mét vuông mặt nước.

Ông Webb viết: “Vì tất cả những mục tiêu thực tế đó, Trung Quốc đã đơn phương quyết định thôn tính một khu vực từ lục địa Đông Á trải rộng về phía đông xa tới Philippines và về phía nam gần tới Eo biển Malacca.” Yêu sách lãnh thổ khổng lồ này, bao gồm gần như toàn bộ vùng Biển Đông, xung đột với yêu sách lãnh thổ của các nước láng giềng của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm Việt Nam, Nhật Bản và Philippines. Gạt qua một bên những yêu sách đối nghịch này, Trung Quốc đã tạo ra một đơn vị hành chính mới, gọi là “thành phố Tam Sa” đặt trụ sở tại quần đảo Hoàng Sa và có quyền báo cáo trực tiếp với chính phủ trung ương ở Bắc Kinh.

Quần đảo Hoàng Sa cách hơn 200 dặm về phía đông nam điểm cực nam của lãnh thổ Trung Quốc và trong nhiều thập niên qua Việt Nam đã mạnh mẽ tuyên bố chủ quyền trên quần đảo này. Nhưng giờ đây, quần đảo là nơi đặt văn phòng cho khoảng 45 “dân biểu” Trung Quốc được bổ nhiệm để cai trị thành phố mới, cùng với một ủy ban thường trực 15 thành viên, 1 thị trưởng và 1 phó thị trưởng. “’Thành phố’ mới của Trung Quốc rộng gần gấp đôi tổng diện tích đất liền của Việt Nam, Nam Hàn, Nhật Bản và Philippines cộng lại”, ông Webb viết.

Việc kiểm soát các tuyến đường biển, quyền đánh bắt cá và trữ lượng khoáng sản khổng lồ cũng như vấn đề ai sẽ nắm quyền thống trị chiến lược trong khu vực đều đang bị đe dọa. Có vẻ như Trung Quốc nhất quyết giật khỏi tay Hoa Kỳ quyền thống trị chiến lược ấy để họ có thể trở thành cường quốc thống trị của khu vực. Khả năng của Hoa Kỳ từ trước tới nay trong việc duy trì sự ổn định – và từ đó là sự thịnh vượng – của khu vực sẽ không còn nữa.

Ông Webb không phải là người đầu tiên đưa ra lời cảnh báo như vậy, nhưng bài nghị luận của ông nêu bật một thực tế cốt lõi của tấn kịch đang lộ ra – đúng ra là một tấn kịch đang lộ ra nhanh hơn nhiều so với những gì mà phần lớn người dân Hoa Kỳ nhận thức được. Châu Á đang nhìn để quyết định xem có phải Hoa Kỳ sẽ “làm trọn vai trò khó khăn nhưng cần thiết là người bảo đảm sự ổn định ở Đông Á hay không, liệu khu vực này có sẽ một lần nữa bị thống trị bởi sự hiếu chiến và hăm dọa hay không”, như ông Webb diễn tả.

Trung Quốc ngày nay là một sự thách thức địa chính trị quan trọng nhất mà Hoa Kỳ đang đối mặt. Nhiều năm tháng đã trôi đi kể từ khi Hoa Kỳ lại cần có sự dũng cảm và sáng tạo sắc bén như bây giờ dưới ánh sáng sự thách đố của Bắc Kinh. Do đó, vị tổng thống đăng quang năm tới không chỉ phải đối phó với thách thức này mà ông ta cũng phải chuẩn bị để đất nước sẵn sàng cho thách thức ấy. Điều đó gợi ra một số nhu cầu bức thiết về chính sách.

Rút ra khỏi Afghanistan một cách suôn sẻ: Khi lên cầm quyền, Tổng thống Obama đã nâng cấp sứ mệnh ở Afghanistan, bao hàm cả một nỗ lực chống bạo loạn, nghĩa là một công cuộc xây dựng quốc gia to lớn. Nhưng kể từ đó, ông đã hạ cấp cái sứ mệnh này theo một quan niệm gọi là “Afghanistan đủ tốt”. Ý nghĩa chính xác là gì thì tổng thống chưa bao giờ nói rõ ra, tuy nhiên ông đã nói rằng, đến cuối năm 2014, Afghanistan sẽ “hoàn toàn chịu trách nhiệm về an ninh của đất nước họ”.

Dưới ánh sáng sự thách thức mang tên Trung Quốc, “Afghanistan đủ tốt” sẽ không đủ tốt nữa. Và một hạn cuối cùng mơ hồ năm 2014, không có thêm lời giải thích rõ ràng về những nỗ lực nào của Hoa Kỳ sẽ được thực hiện tiếp tục sau thời hạn đó, sẽ thiếu đi sự trong sáng về chính sách mà đất nước cần. Trong cuốn sách về chính sách ngoại giao của ông Obama, cuốn “Đối đầu và Che giấu”, nhà báo David E. Sanger của báo New York Times viết rằng một thập niên nữa kể từ hôm nay, du khách thăm viếng Afghanistan sẽ nhìn thấy rất ít dấu vết cuộc thử nghiệm của Hoa Kỳ tại đó – “ngoại trừ những căn cứ và những thiết bị quân sự”. Dù vậy, trong thực tế, Hoa Kỳ không có nhu cầu đặt nhiều căn cứ quân sự ở Afghanistan. Al-Qaeda đã bị quét sạch khỏi khu vực này (dù vẫn là vấn đề ở nơi khác); Taliban không phải là mối đe dọa chính đối với nước Mỹ; người dân Afghanistan sẽ đi con đường của họ như họ đã đi trong nhiều thế kỷ qua bất chấp những nỗ lực chinh phục đất nước họ và Hoa Kỳ cũng không đủ sức duy trì nỗ lực của mình bằng máu, tài sản và sự tập trung.

Dàn hòa với Nga: Trong cuốn sách mới ra gần đây của mình “Sự trả thù của Địa lý”, Robert D. Kaplan viết rằng, sở dĩ Trung Quốc có khả năng triển khai lực lượng ra Thái Bình Dương là vì họ thống trị được các biên giới trên đất liền vùng Trung Á, “từ Mãn Châu Lý (Manchuria) ngược chiều kim đồng hồ đến Tây Tạng”. Ông Kaplan giải thích: “Chỉ đơn giản với cách vươn ra biển theo kiểu hiện nay, Trung Quốc đã thể hiện cái vị trí ưu thế của mình trên đất liền ở trái tim châu Á”. Tuy nhiên, lợi ích của nước Nga không phải là để Trung Quốc thanh thản trên vùng biên giới phía tây của mình, gia tăng ảnh hưởng lên vùng Trung Á và kiểm soát việc khai thác tài nguyên thiên nhiên quý giá ở đó. Cũng không phải là lợi ích của Hoa Kỳ (hoặc của Nga) khi nhìn thấy Trung Quốc liều lĩnh trong các đòi hỏi lãnh thổ trong Thái Bình Dương chỉ vì Bắc Kinh cảm thấy an toàn trên đất liền.

Như vậy, nếu Trung Quốc là mối đe dọa chiến lược lớn nhất của Hoa Kỳ thì một mối quan hệ vững chắc với Nga lại là một trong những nhu cầu chiến lược lớn nhất. Đã đến lúc Hoa Kỳ bớt đi nỗi khó chịu của mình trước sự cai trị độc tài và tham nhũng tràn lan của Nga. Nước Nga dù gây phiền toái đến mấy thì đó cũng không phải là loại thực thể xấu xa mà Franklin Roosevelt và Winston Churchill đã chung vai sát cánh trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Là một cường quốc khu vực, nước Nga có những quyền lợi khu vực chính đáng; Hoa Kỳ phải công nhận những lợi ích này và tích hợp chúng vào nỗ lực của mình nhằm thiết lập một mối quan hệ bền vững, đôi bên cùng có lợi với nước Nga – một mối quan hệ mà nếu cần có thể trở nên hữu ích trong bất kỳ cuộc đối đầu nào với Trung Quốc trong tương lai.

Tránh chiến tranh với Iran: Hoa Kỳ hiện đang trên con đường đi tới chiến tranh với Iran và con đường đó lúc đầu được vạch ra bởi Israel – quốc gia đã đưa ra lời đe dọa tấn công đơn phương vào Iran để gia tăng thái độ của Hoa Kỳ chống lại nước Cộng hòa Hồi giáo này. Cho đến nay, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu vẫn tìm cách buộc ông Obama ngăn cản bất kỳ ý định nào của Hoa Kỳ chấp nhận khả năng Iran có thể có vũ khí hạt nhân (nghĩa là không đưa ra chính sách cản trở). Điều đó để ngỏ vấn đề liệu Hoa Kỳ có nên cho phép – và liệu Iran có chấp nhận – việc làm giàu uranium ở mức độ thấp chỉ dùng cho mục đích hòa bình hay không. Netanyahu chống lại một giải pháp như vậy và chưa rõ điều đó có thể mở đường tiến tới một giải pháp hòa bình cho vấn đề hay không. Nhưng những biện pháp cấm vận ngặt nghèo hiện hành sẽ không tạo ra được phản ứng mong muốn từ Iran nếu phản ứng đó tỏ ra là một nỗi nhục đối với Iran. Đó là lý do tại sao trong vấn đề này tư duy của Hoa Kỳ nên hướng tới giải pháp làm giàu uranium với mục đích hòa bình, cho dù điều đó có nghĩa là một cuộc tuyệt giao công khai với Netanyahu.

Nhân dân Hoa Kỳ nên tập hợp sau lưng tổng thống trong những tình huống như vậy nếu tổng thống nói thẳng với người dân về những được mất có liên quan. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ không nên vướng vào những vụ giễu võ giương oai theo kiểu báo chí, được thấy rõ trên bìa tạp chí The Weekly Standard tuần qua, trên đó in hình nhà lãnh đạo tối cao Iran Ali Khamenei dưới dóng tít lớn: “Con người nguy hiểm nhất thế giới”. Mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ đang nằm cách người đàn ông này hàng ngàn dặm. Và Hoa Kỳ cũng không nên tìm kiếm một cuộc đụng độ quân sự với Iran, nếu có thể tránh được, bởi vì một cuộc xung đột như vậy sẽ phá hủy hoàn toàn nền kinh tế thế giới và có thể gây bất ổn lan tràn khắp khu vực.

Không đặt chân lên đất Hồi giáo nữa: Trung Đông đang hỗn loạn và cả khu vực này đang có nguy cơ mất ổn định vì cuộc nội chiến ở Syria. Những biến cố ở đó có thể giáng một đòn nặng nề vào các quyền lợi của Hoa Kỳ, của phương Tây và của đa số các quốc gia công nghiệp còn lại. Một hành động quân sự của Hoa Kỳ thực sự có thể là cần thiết để ổn định khu vực này nhưng Hoa Kỳ nhất thiết phải làm mọi chuyện có thể làm được để tránh một hành động như vậy. Một cuộc can thiệp nữa của Hoa Kỳ vào khu vực này chắc chắn sẽ kích động một phong trào chống đối mạnh mẽ hơn. Nhưng thủ tọa bàng quan cũng không phải là chính sách thích hợp. Tình huống hiện nay đòi hỏi những nỗ lực thầm lặng, sáng tạo và khôn khéo, luôn kết hợp với các thế lực Hồi giáo trong khu vực, đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ, để tránh những hậu quả tồi tệ nhất có thể xảy ra và giữ cho tình hình luôn nằm trong tầm kiểm soát tới mức tối đa. Nên chống lại mạnh mẽ các áp lực đòi Hoa Kỳ phải can dự vào Syria trên cơ sở nhân đạo.

Nhu cầu tăng trưởng kinh tế: Obama chưa phải là vị tổng thống thành công trong lĩnh vực kinh tế. Tăng trưởng kinh tế diễn ra khá èo uột trong gần hết nhiệm kỳ tổng thống của ông. Thực trạng này cần được thay đổi ngay lập tức. Nhưng xử lý vấn đề tăng trưởng mà không làm trầm trọng thêm vấn đề nợ công rất đáng ngại của đất nước lại không phải là chuyện dễ. Đó là lý do tại sao nhiệm kỳ tổng thống kế tiếp cần phải được dành hẳn một cách cần mẫn cho cuộc cải tổ toàn diện về ngân sách và tài khóa, được thiết kế để xử lý vấn đề chi tiêu ngoài tầm kiểm soát của liên bang trong lúc thúc đẩy hoạt động kinh tế và tăng trưởng. Chương trình cải tổ tài khóa sẽ phải được kết hợp với một chương trình cải tổ toàn diện về thuế khóa, giảm thuế suất đồng thời xóa bỏ một số lượng lớn các ưu đãi về thuế, bao gồm những ưu đãi mà nhiều thập niên qua vẫn được coi là những con bò thiêng không ai đụng đến được. Chỉ bằng cách khôi phục sự lành mạnh về tài khóa thì đất nước mới có thể đương đầu với những thách thức to lớn như kiểu thách thức đang hiển hiện lù lù ở châu Á. Nhưng tất cả những chuyện này đòi hỏi sự lãnh đạo của tổng thống phải được ủng hộ rộng rãi, một kiểu lãnh đạo mà đã lâu chúng ta chưa nhìn thấy.

Như bài báo của ông Webb trên báo Wall Street Journal đã làm rõ, ông Obama đã khôn ngoan khi khởi xướng cuộc “chuyển hướng” sang châu Á. Nhưng sẽ không đủ nếu chỉ chuyển dịch trọng tâm, tiến hành qua loa chính sách ngoại giao châu Á và đưa ra những lời tuyên bố. Như ông Webb đã viết, “Vấn đề là liệu Trung Quốc năm 2012 có thực sự mong muốn giải quyết các vấn đề thông qua các tiêu chuẩn được quốc tế chấp nhận hay không, và liệu Hoa Kỳ năm 2012 có ý chí và khả năng để nhấn mạnh rằng, giải pháp này là con đường duy nhất đi tới ổn định hay không”.

Nói một cách chính xác, Hoa Kỳ sẽ đáp ứng thách thức này như thế nào vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ. Nó cần có một đường lối ngoại giao khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt và cứng rắn, hòa trộn với sự cương quyết và sự hiểu biết rõ ràng về những được mất liên quan. Nhưng nó cũng đòi hỏi sự thừa nhận rằng Hoa Kỳ phải tập trung vào những ưu tiên, phải chấp nhận rằng mình không thể làm mọi việc ở mọi nơi trên thế giới và phải tránh bị xao lãng trong lúc đối mặt những thử thách nặng nề nhất bằng đôi mắt tỉnh táo. Trong những ngày tháng này, trong những thử thách đó, không thử thách nào nặng nề hơn Trung Quốc.

(*) Robert W. Merry là chủ bút tạp chí The National Interest và tác giả của nhiều tập sách về lịch sử và chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Cuốn sách gần đây nhất của ông là: “Họ đứng ở đâu: Các tổng thống Mỹ trong mắt của cử tri và sử gia”.

Nguồn:http://nationalinterest.org/commentary/the-china-challenge-7372?page=show

 

Thế giới sau… Bin Laden

(4/5/2011) – Sau 10 năm truy lùng và phát động hai cuộc chiến tranh, cuối cùng người Mỹ cũng đã phát hiện và tiêu diệt ông trùm khủng bố Osama bin Laden tại Pakistan chủ nhật vừa qua. Sự kiện này gây sốc trên toàn thế giới và tác động thực sự của nó cần có thời gian để lượng định.

Công bố cái chết của bin Laden, Tổng thống Mỹ Barack Obama coi đó là “sự thực hiện công lý”, là “thành tựu lớn nhất của Mỹ từ trước đến nay trong nỗ lực tiêu diệt Al-Qaeda”. Mặc dù hy vọng thế giới sẽ an toàn hơn song ông Obama cũng khẳng định, chủ nghĩa khủng bố nói chung vẫn chưa bị tiêu diệt, và người Mỹ không nên tự mãn với thắng lợi của mình. Các nhà lãnh đạo khác của phương Tây cũng phát biểu những quan điểm tương tự. Và hầu như ngay lập tức, bộ ngoại giao các nước Anh, Mỹ, Úc… đều yêu cầu các sứ quán của mình siết chặt biện pháp an ninh, cảnh báo công dân hạn chế đi lại ở nước ngoài nhằm đề phòng các vụ tấn công trả đũa.

Sự thận trọng của phương Tây là hợp lý bởi vì Al-Qaeda đã nhiều lần tuyên bố sẽ cho nổ bom hạt nhân ở châu Âu một khi lãnh tụ bin Laden bị giết hoặc bị bắt. Các tổ chức cực đoan khác ở Pakistan, Palestine cũng lớn tiếng đòi trả thù cho bin Laden. Tuy nhiên, không ít người nghi ngờ khả năng trả đũa đó.

Theo các nhà nghiên cứu về chủ nghĩa khủng bố, sau khi thực hiện vụ tấn công ngày 11-9-2001, vai trò của bin Laden ngày càng suy giảm; trong thời gian trốn lánh sự truy lùng gắt gao của Mỹ, ông ta chỉ còn là một biểu tượng tinh thần mang ý nghĩa tượng trưng chứ không phải là nhà chiến lược, nhà tổ chức của phong trào thánh chiến Hồi giáo. Đoạn băng video cuối cùng mà bin Laden thực hiện và công bố trên mạng là vào năm 2007, từ đó đến nay ông ta không xuất hiện nữa.

Bản thân tổ chức Al-Qaeda cũng bị phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ, hoạt động rải rác ở Bắc Phi, Nam Á… gắn kết với nhau một cách lỏng lẻo trên nền tảng ý thức hệ là chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo. Do tàn sát tràn lan, kể cả đồng đạo ở các nước Hồi giáo, uy tín của tổ chức này suy giảm nghiêm trọng đến mức thanh niên các nước Hồi giáo hầu như quay lưng với Al-Qaeda. Các cuộc điều tra xã hội học do tổ chức Pew Research tiến hành trong các năm 2003 và 2010 cho thấy, tỷ lệ người tin theo bin Laden tại Pakistan đã giảm từ 46% năm 2003 xuống 18% năm ngoái, tại Jordan giảm từ 56% xuống 13%, còn tại Li-băng giảm từ 19% xuống 1%.

Al-Qaeda hầu như không có vai trò gì trong cuộc “cách mạng Hoa Lài” làm rung chuyển cả Trung Đông và Bắc Phi mùa xuân năm nay, dẫn tới sự thay đổi chính phủ ở Tunisia và Ai Cập, làm lung lay chế độ ở Yemen, Syria và gây nội chiến ở Libya. Đã có sự chuyển biến sâu sắc trong các xã hội Hồi giáo về chiến lược đấu tranh chống Mỹ và phương Tây, theo đó chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo coi bạo lực và khủng bố là phương thức duy nhất đã không còn được giới trẻ Hồi giáo ủng hộ, thay vào đó họ chọn con đường đấu tranh hòa bình thông qua các phong trào quần chúng đòi dân chủ và cải cách xã hội.

Sự kiện Bin Laden bị tiêu diệt có thể là một đòn nặng giáng vào tổ chức Al-Qaeda và các nhóm Hồi giáo vũ trang cực đoan nhưng vấn đề của thế giới sau Bin Laden là làm thế nào nuôi dưỡng các phong trào đấu tranh hòa bình và dân chủ ở các nước Hồi giáo, không để cho chúng gây ra tình trạng bất ổn, tạo môi trường thuận lợi cho Al-Qaeda gieo rắc những hạt mầm khủng bố.
*
Đối với nước Mỹ, thành công của chiến dịch tiêu diệt Bin Laden cũng đồng thời đặt dấu chấm hết cho vai trò của nước này tại Afghanistan và Iraq, đẩy nhanh tiến trình triệt thoái quân đội Mỹ và đồng minh phương Tây.

Chiến dịch tối Chủ nhật vừa qua cũng cho thấy, trong cuộc chiến tranh chống khủng bố, quân đội vũ trang đến tận răng, cùng với máy bay, tàu chiến hiện đại chưa chắc đã có hiệu quả bằng tin tức tình báo và lực lượng đặc nhiệm. Các nhà chỉ huy quân đội Mỹ đã bắt đầu tính tới việc thay thế chiến lược chiến tranh tổng lực bằng các cuộc chiến tranh tình báo tinh vi và bí mật. Việc đề bạt ông trùm Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) Leon Panetta vào cương vị bộ trưởng quốc phòng thay ông Robert Gates có thể là điểm khởi đầu của sự thay đổi này.

Nỗ lực chống khủng bố toàn cầu, tâm điểm là hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan đã tiêu tốn nhân lực và tài lực của nước Mỹ suốt 10 năm qua, đẩy Mỹ vào quá trình suy thoái trầm trọng và tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của các nước như Trung Quốc. Chỉ tính về mặt tài chính, nước Mỹ đổ vào Iraq và Afghanistan mỗi năm 171 tỉ đô la, góp phần làm tăng thâm hụt ngân sách và đào sâu mối bất đồng trong giới lãnh đạo Mỹ.

Rút ra khỏi chiến tranh Iraq và Afghanistan, Mỹ không chỉ có điều kiện tập trung khôi phục kinh tế, củng cố giá trị đồng tiền mà còn có thể hướng sự chú ý vào các điểm nóng khác như Bắc Phi, Đông Á – nơi vai trò và ảnh hưởng của Mỹ đang vấp phải sự canh tranh quyết liệt của các cường quốc mới nổi.

Như nhận định của cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, một nước Mỹ mạnh và hành động có trách nhiệm mới là điều cần thiết để thế giới an toàn hơn và thịnh vượng hơn, chứ không phải bin Laden đã chết hay còn sống.